TIN TỨC-SỰ KIỆN

Viện nghiên cứu tư nhân vẫn bị kì thị!

Ngày đăng: 22 | 01 | 2008

Viện Điện - Điện tử - Tin học (EEI) là một trong số ít những viện nghiên cứu tư nhân đã vượt qua được khó khăn để trụ vững và ngày càng phát triển trong bối cảnh công tác xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) là vấn đề khá mới mẻ và thị trường công nghệ ở Việt Nam đang ở giai đoạn sơ khai.

Tạp chí Hoạt động khoa học đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Bách Phúc - Viện trưởng EEI, Chủ tịch Hội Tư vấn KH &CN và quản lý Tp Hồ Chí Minh về kinh nghiệm xây dựng, phát triển EEI và một số vấn đề liên quan tới các viện nghiên cứu tư nhân ở nước ta.

Xin ông giới thiệu khái quát về EEI, đặc biệt là những thế mạnh của Viện?

EEI do 32 nhà khoa học sáng lập từ đầu năm 2004. Đến nay, Viện đã quy tụ được 120 nhà khoa học, trong đó có 14 giáo sư và phó giáo sư, 46 tiến sỹ, 18 thạc sỹ. Bốn nghề chuyên môn của Viện là: Điện - năng lượng, điện tử - viễn thông, công nghệ thông tin, tự động hóa. Bốn lĩnh vực hoạt động chính của Viện là: Nghiên cứu khoa học - chuyển giao công nghệ, tư vấn - thiết kế - thẩm định - phản biện, đào tạo nâng cao trình độ, thông tin KH &CN. Ngoài ra, Viện còn hoạt động trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch.

Thế mạnh của Viện là nguồn nhân lực. Theo Website Tp Hồ Chí Minh và Website Chợ tư vấn của Sở KH &CN Tp Hồ Chí Minh thì hiện nay trên địa bàn thành phố có 74 viện và phân viện của trung ương và thành phố. Nếu lấy tổng số giáo sư, phó giáo sư và tiến sỹ của các viện làm chỉ tiêu so sánh, thì EEI có số lượng nhiều nhất (60 vị), thứ nhì là Viện Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực của Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh (40 vị). Trong gần 4 năm qua, EEI đã và đang thực hiện gần 100 hợp đồng. Khách hàng của Viện là các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, trường đại học... Viện cũng đã có những hợp tác đào tạo quốc tế có hiệu quả như hợp tác đào tạo tiến sỹ với Viện Hàn lâm IASS của Liên bang Nga và với một số trường đại học của Trung Quốc, Singapore.

Ngày bắt tay vào xây dựng EEI, ông và các đồng nghiệp đã gặp những khó khăn lớn gì và đã làm cách nào để vượt qua những khó khăn đó?

Khi chuẩn bị cho sự ra đời của EEI, chúng tôi đã phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải. Cái khó đầu tiên là niềm tin vào triển vọng tồn tại và phát triển của Viện. Vào thời điểm ấy (cuối năm 2003), Nghị định 35-HĐBT ngày 28.1.1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phép các tổ chức KH &CN tư nhân hoạt động đã có hiệu lực hơn 10 năm. Hàng trăm trung tâm KH &CN đã được thành lập, nhưng hầu hết đều hoạt động kém hiệu quả. Vậy thì số phận của EEI sẽ ra sao? Có nên thành lập hay không? Vấn đề này đã được Hội nghị thành lập Viện ngày 16.11.2003 đưa ra mổ xẻ, phân tích thế mạnh, thế yếu, triển vọng và rủi ro… Cuối cùng cả 32 nhà khoa học tham gia hội nghị đã xác định niềm tin và nhất trí hạ bút ký vào hồ sơ xin thành lập Viện gửi lên UBND thành phố. Cái khó thứ hai là vốn liếng: Các nhà khoa học thì nghèo, đầu tư ban đầu dù rất khiêm nhường cũng tốn trên 2 tỷ đồng. Đi vay thì sợ: Liệu việc làm ăn sẽ ra sao? Có thể trả nợ được không? Cuối cùng chúng tôi vẫn cùng nhau góp vốn, chấp nhận thử thách. Cái khó thứ ba là cái khó riêng của các nhà khoa học: Tất cả các thành viên của Viện vốn chỉ quen với hoạt động khoa học và đào tạo, chưa ai từng làm kinh tế, chưa ai từng dìu dắt, chèo lái một đơn vị hạch toán độc lập, lo toan đồng tiền bát gạo, lo toan tìm kiếm và ký kết hợp đồng, chưa từng đụng chạm đến những khía cạnh luật pháp, thuế trong làm ăn… Lúc đó các nhà khoa học, nhất là lãnh đạo Viện phải học hỏi, phải dấn thân, phải chấp nhận kể cả vấp ngã (nếu có).

ông nhận xét thế nào về các viện nghiên cứu tư nhân do các nhà khoa học “tự làm, tự chịu trách nhiệm” ở nước ta hiện nay?

Tôi không biết chính xác hiện nay có bao nhiêu viện nghiên cứu tư nhân ở Việt Nam và cũng không có cơ hội tìm hiểu rõ về các viện đó. Tuy nhiên, theo những gì tôi biết thì ở Hà Nội có một viện nghiên cứu tư nhân về nông nghiệp, hoạt động rất có hiệu quả, có nhiều thành công lớn, nhưng rất tiếc là tôi chưa có dịp giao tiếp với họ. ở Tp Hồ Chí Minh, ra đời sau EEI khoảng 1 năm (cuối năm 2004) là Viện Công nghệ cao NTT với 15 nhà khoa học, nghe nói Viện này đến nay chưa có hoạt động cụ thể. Một năm trước vào tháng 10.2006, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã thành lập Viện Khoa học công nghệ Phương Nam, trụ sở ở Tp Hồ Chí Minh, bước đầu có 9 nhà khoa học tham gia, nghe nói viện này đã bắt đầu có những hoạt động hiệu quả.

Ngoài ra, theo trang web của Tp Hồ Chí Minh và trang Web Chợ tư vấn của Sở KH &CN Tp Hồ Chí Minh, trên địa bàn thành phố hiện có gần 10 viện không phải của Nhà nước, những viện này có tên đăng ký là viện, nhưng không làm công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mà chỉ thực hiện các khóa đào tạo về quản trị kinh doanh.

Theo ông, để tạo điều kiện cho các viện tư nhân phát huy tốt hơn tiềm năng chất xám, chúng ta cần phải làm gì?

Có thể khẳng định rằng, chính sách của Nhà nước ta đối với KH &CN, các nhà khoa học, các viện tư nhân là tốt. Luật KH &CN, các nghị định của Chính phủ, các quyết định của Bộ KH &CN… là rất rộng mở, không phân biệt các thành phần kinh tế, nghĩa là không phân biệt “tư nhân” với “Nhà nước”, không phân biệt “tư doanh” với “quốc doanh”. Theo các văn bản này, viện tư nhân với viện nhà nước hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật, có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Thế nhưng thực tiễn cuộc sống lại không hoàn toàn như vậy. Chính sách rộng mở của Nhà nước với hành lang pháp lý thông thoáng là một phía, còn phía kia là sự thi hành chính sách, vận dụng pháp luật. Phía thứ hai này phụ thuộc rất nhiều yếu tố không nằm trong các chính sách hoặc luật pháp về KH &CN. Tôi đã phát biểu ở nhiều hội nghị lớn rằng, Viện chúng tôi là “Viện ô sin”, bởi lẽ tất cả bốn lĩnh vực hoạt động của chúng tôi, kể cả lĩnh vực nghiên cứu khoa học - chuyển giao công nghệ đều là công việc dịch vụ, nói theo kiểu của dân dã là “công việc của ô sin”. Nhưng tiếc thay, Viện sẵn sàng phục vụ với chất lượng cao, nhưng không dễ dàng tìm được những ông, bà chủ tốt bụng chịu bắt tay hợp tác.

Đơn cử một ví dụ, Viện chúng tôi đã thỏa thuận kỹ càng một hợp đồng nghiên cứu và tư vấn cho Sở Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin của một tỉnh ở Nam Bộ về định hướng phát triển công nghệ thông tin và viễn thông đến năm 2020. Nhưng đến gần ngày ký kết, Giám đốc Sở đã dừng tay chỉ vì có cơ quan chức năng trong tỉnh hỏi nhỏ “sao không ký với Viện của Nhà nước, mà ký với Viện tư nhân?”. Chúng tôi thông cảm với ông Giám đốc Sở đó và chấp nhận ngừng ký hợp đồng nhưng trong lòng rất buồn. Các nhà khoa học của Viện đã mất một cơ hội cống hiến tri thức, Viện thì mất đi một nguồn thu nhập (mà trước đó đã bỏ ra nhiều thời gian và sức lực để tìm hiểu, tham khảo chuẩn bị cho việc ký kết hợp đồng).

Một ví dụ khác, chúng tôi chuẩn bị ký một hợp đồng lớn với một doanh nghiệp lớn của Nhà nước sau khi đã bỏ ra nhiều công sức và thời gian nghiên cứu, khảo sát để lên đề cương, thông qua đề cương và thỏa thuận hợp đồng, nhưng phút chót, Tổng giám đốc doanh nghiệp xin ngừng ký kết, với một lý do đơn giản là trong Hội đồng quản trị của EEI có một người là người thân của ông. Trong thời gian đó, dư luận đang bàn tán xôn xao về các “công ty gia đình” của một số doanh nghiệp nhà nước. Để tránh “điều tiếng”, ông Tổng giám đốc này đã tránh hợp tác với EEI, vì dù sao EEI cũng là một viện “tư nhân”.

Tôi có thể kể ra đây rất nhiều ví dụ khác nữa nhưng chung quy lại là trong thực tế, viện tư nhân vẫn bị kỳ thị, không được bình đẳng với viện nhà nước. Đây cũng là khó khăn lớn nhất của chúng tôi.

ông có thể chia sẻ với bạn đọc của Tạp chí về một số dự định trong thời gian tới?

Sắp tới EEI dự định sẽ phấn đấu cho các mục tiêu sau:

- Xin Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo tiến sỹ và thạc sỹ. Luật Giáo dục đã quy định: Các trường đại học và các viện được đào tạo tiến sỹ khi Thủ tướng Chính phủ giao. Nhà nước dự kiến đến năm 2020, Việt Nam sẽ đào tạo thêm 20.000 tiến sỹ. Nếu được Thủ tướng Chính phủ giao, Viện chúng tôi xin sẵn sàng đảm nhận 1% dự kiến của Nhà nước, tức là sẽ đào tạo cho Việt Nam khoảng 200 tiến sỹ.

- Đăng ký và thực hiện các đề tài nghiên cứu KH &CN tương xứng với khả năng và trình độ của các chuyên gia của Viện: Năm 2006, chúng tôi không đăng ký một đề tài nghiên cứu khoa học nào. Đó là sai sót của chúng tôi, kể cả ban lãnh đạo cũng như các nhà khoa học của Viện. Thời gian tới, điểm yếu này sẽ được khắc phục, vì chúng tôi cũng có rất nhiều ý tưởng và mong muốn được biến chúng thành hiện thực.

- Mở rộng hợp tác KH &CN với các nhà khoa học Việt kiều: Thu hút trí tuệ của khoảng 300.000 nhà khoa học Việt kiều là một chủ trương lớn của nhà nước Việt Nam, nhưng kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Chúng tôi cho rằng, cách tốt nhất là hợp tác với Việt kiều thực hiện những hợp đồng KH &CN cụ thể, có tầm cỡ, tương xứng với trình độ của các trí thức Việt kiều. Viện chúng tôi mong muốn Nhà nước tạo điều kiện để có thể ký được những hợp đồng như vậy. Nhân đây cũng nói thêm rằng, hiện đã có 2 tiến sỹ Việt kiều ở Mỹ là thành viên chính thức của Viện chúng tôi.

Xin cảm ơn ông và chúc EEI ngày càng phát triển!

NỘI DUNG KHÁC

Trung Quốc áp dụng hạn ngạch xuất khẩu lương thực

22-1-2008

Trung Quốc áp dụng hạn ngạch xuất khẩu lương thực: ổn định giá lương thực, chống lạm phát. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2008, Bộ Tài chính Trung Quốc sẽ áp dụng chính sách hạn ngạch xuất khẩu các sản phẩm phẩm từ lương thực như bột mỳ, bột ngũ cốc, bột gạo.

Nội lực là yếu tố quyết định thành công

22-1-2008

Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết khẳng định: "Những thành công của đất nước là sự hội tụ kết quả của quá trình nhiều năm, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc trước kia và trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay"...

Hội thảo "Thực thi các cam kết Thương mại dịch vụ của Việt Nam"

23-1-2008

Trong khuôn khổ hoạt động SERV-2 nhằm hỗ trợ các Bộ, ngành của Việt Nam thực thi các cam kết và nghĩa vụ trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của Việt Nam, Ban đặc trách Dự án Hỗ trợ Thương mại đa biên (MUTRAP II) tổ chức Hội thảo "Thực thi các cam kết Thương mại dịch vụ của Việt Nam".

Hàng ngoại tràn vào thị trường

21-1-2008

Sau "biện pháp sốc" giảm thuế để giảm giá của Bộ Tài chính năm 2007, đầu năm 2008, VN tiếp tục phải cắt giảm hơn 1.700 dòng thuế. Cùng với việc giảm thuế thì hàng ngoại tràn vào thị trường VN ngày càng nhiều. Điều này không chỉ đe doạ thị trường trong nước, mà còn ảnh hưởng cả đến nền sản xuất hàng hoá của VN.

Hạn chế tối đa sự doãng ra khoảng cách giàu nghèo

21-1-2008

Trả lời báo chí về vấn đề nổi cộm hiện nay là việc thu hồi đất để phát triển công nghiệp, đô thị hóa dẫn đến tình trạng người nông dân mất đất, xảy ra khiếu kiện kéo dài, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói: Quá trình công nghiệp hóa tất yếu phải sử dụng đến một phần đất nông nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận nông dân. Việc giải tỏa, đền bù ở một vài nơi còn thiếu minh bạch, gây bức xúc trong nhân dân, dẫn đến những vụ khiếu kiện.

Hội thảo: "Tác động của WTO và vai trò của các VNGOs"

29-1-2008

Trung tâm hỗ trợ phát triển(CDA) phối hợp với nhóm các tổ chức xã hội dân sự vì an ninh lương thực và giảm nghèo CIFPEN tổ chức Hội thảo: "Tác động của WTO và vai trò của các VNGOs" với sự tài trợ của Action Aid Việt Nam và dự án ENABLE.

Thực hiện NĐ 115: Lại xin thêm thời gian

18-1-2008

Sau hai năm Nghị định 115 được ban hành, mới chỉ có một nửa các tổ chức KH&CN có đề án chuyển đổi được phê duyệt, tiến độ thực hiện so với quy định còn chậm. Để “tăng tốc”, Bộ KH&CN đã cử các đoàn công tác liên ngành tới các tổ chức KH&CN cùng tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh việc thực hiện Nghị định này.

Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ

18-1-2008

Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ" là nhan đề tác phẩm nghiên cứu địa lý nhân văn của Tiến sĩ văn học Pháp Pierre Gourou. Đây là một tác phẩm đặc sắc nghiên cứu về châu thổ sông Hồng, một châu thổ vào loại đông dân nhất trên thế giới, cái nôi của nền văn minh Việt Nam.

Nông nghiệp sau một năm vào WTO

18-1-2008

Theo đánh giá của các chuyên gia, sau một năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cơ hội cho người nông dân và các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường nông sản thế giới với kim ngạch buôn bán gần 600 tỷ USD/năm đã rộng mở hơn trước.

Nhu cầu gạo giảm, thị trường gạo có biểu hiện suy thoái

17-1-2008

Từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, Trung Quốc tạm thời quy định thu 5% thuế suất xuất khẩu gạo, 10% đối với sản phẩm chế biến từ bột gạo. Cùng với lượng lương thực cung cấp mang tính chính sách không ngừng tăng, gần đây, một số thị trường gạo ở khu vực miền Nam đã bắt đầu nguội dần.

Hội thảo "Tác động của cải cách về thương mại ở cấp độ kinh tế vĩ mô và cấp độ khu vực"

17-1-2008

Trong khung chương trình chung của dự án CIEM-DANIDA về "Nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển và phân tích chính sách cho Viện Quản lý Kinh tế Trung ương", Viện Quản lý Kinh tế Trung ương tổ chức buổi hội thảo "Tác động của cải cách về thương mại ở cấp độ kinh tế vĩ mô và cấp độ khu vực".

Gom đối tượng thành nhóm bằng công cụ Group

17-1-2008

Công cụ Group được sử dụng rất nhiều trong các phần mềm đồ hoạ như Corel Draw, Adobe Illustrator... để gom nhiều đối tượng thành một khối thống nhất cho mục đích di chuyển và chỉnh sửa.