TIN TỨC-SỰ KIỆN

Quốc tế hóa quá trình quản lý khoa học

Ngày đăng: 30 | 11 | 2007

Hiện nay nhiều nhà khoa học trẻ (trên dưới 40) trong và ngoài nước, hiện đang nghiên cứu khoa học rất tích cực ủng hộ đòi hỏi phải có yếu tố “công bố quốc tế” trong việc đánh giá các đề tài khoa học.

Theo ý kiến riêng của tôi vấn đề này cần phải đặt ra không chỉ trong nghiên cứu mà cả trong quản lý khoa học.

Việc giải quyết độc lập một trong bốn vấn đề trên chẳng hạn như đòi hỏi các nhà khoa học phải có công bố quốc tế sẽ không thể tháo gỡ được vòng luẩn quẩn này. Không có công bố quốc tế chỉ là phần ngọn của thực trạng nghiên cứu kém chất lượng. Nếu Nhà nước có tăng kinh phí nghiên cứu khoa học lên gấp hai gấp ba nhưng không có cải tiến trong quá trình phân bổ kinh phí khoa học thì cũng không thể tăng chất lượng nghiên cứu khoa học được. Vì một trong những lý do khiến chất lượng nghiên cứu kém là do không có động lực nghiên cứu (chỉ cần chạy chọt để có đề tài, rồi chạy chọt để nghiệm thu được). Vân vân và vân vân...

Để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học nước nhà chúng ta phải giải quyết đồng thời cả bốn vấn đề nêu trên. Tuy nhiên, theo tôi, trong tình hình hiện nay việc đổi mới tư duy quản lý khoa học là quan trọng nhất. Có thể so sánh tư duy quản lý khoa học với cách ra đề thi tốt nghiệp cho học sinh phổ thông. Bộ ra đề thế nào học sinh sẽ học thế ấy, đề cơ bản - học cơ bản, đề tủ - học tủ, đề trắc nghiệm - học trắc nghiệm. (Câu cửa miệng về của mọi nhà khoa học về chuyện học là “phải học cơ bản”, vậy mà không hiểu sao chủ trương thi cơ bản của bộ mới được vài năm nay lại thay bằng thi trắc nghiệm). Theo tôi bao gồm những việc sau:

1. Quốc tế hóa quá trình quản lý khoa học

Cụ thể là trong việc phân bổ kinh phí, nghiệm thu đề tài. Thực trạng khoa học của chúng ta hiện nay là thấp và rải rác. Nếu ví khoa học thế giới như một cái cây thì khoa học của chúng ta không có cành, chỉ có một số những cái lá. Chúng ta không có những chuyên gia có hiểu biết rộng, tầm nhìn bao quát. Mỗi cán bộ nghiên cứu, hoặc một nhóm nhỏ các cán bộ nghiên cứu, thường nghiên cứu một chuyên ngành khá hẹp, độc lập với các nhà khoa học khác. Hệ quả là trong các hội thảo khoa học thường anh nói anh nghe, tôi nói tôi nghe.

Chính vì thực trạng yếu kém và tản mạn của khoa học như vậy nên việc đánh giá chất lượng các đề tài nghiên cứu là hết sức khó khăn, thường chỉ dựa vào số lượng công trình, nếu có nâng lên một “tầm cao mới” thì cũng chỉ có thể là thêm vào yếu tố “công bố quốc tế”. Thông lệ trong nghiên cứu khoa học ngày nay, khi đánh giá một công trình hay tính khả thi một đề án người ta phải mời những chuyên gia với chuyên môn rất ngần với hướng của công trình, đề tài đó đánh giá. Thông thường những đánh giá của những chuyên gia đó mang tính chất quyết định, các hội đồng được lập ra phần nhiều mang tính hành chính. Đóng góp quan trọng của hội đồng chính là tìm được các chuyên gia thích hợp cho công trình hay đề án mà mình đang xét. Ngược với các hội đồng thường mang tính “địa phương”, khái niệm chuyên gia là “toàn cục”, trong đó không có yếu tố địa lý. Một chuyên gia giỏitrong một ngành nào đó có thể từ Mĩ hay từ Iran.

2. Quốc tế hóa nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học, trừ những hoạt động mang tình quân sự, quốc phòng, là những hoạt động không biên giới. Khoa học thế giới phát triển như vũ bão trong thế kỷ qua chính là nhờ tính mở của khoa học. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh lạnh, ấn phẩm khoa học của Liên Xô vẫn được dịch ở Mĩ và ngược lại. Tôi không đồng tình với một số ý kiến thiên về tính nội lực của khoa học Việt Nam, phân biệt công trình nào là 100% nội lực, công trình nào có cả “ngoại lực”. Tại sao lại có thể khẳng định là đóng góp của tôi trong một bài báo cùng một tác giả khá là ít hơn chỉ vì tôi đến từ một nước lạc hậu hơn. Tôi cho rằng để có thể nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, không có cách nào khác là phải khuyến khích hợp tác quốc tế, thậm chí phải thưởng cho các công trình mang tính quốc tế.

“Yếu tố quốc tế” trong nghiên cứu khoa học bao hàm một nội dung rộng hơn “hợp tác quốc tế”. Một nghiên cứu khoa học sẽ không có ý nghĩa nếu nó không được cộng đồng khoa học quan tâm. Nói một cách đơn giản, nếu công trình của anh đăng lên không được ai quan tâm thì đó là một công trình không có ý nghĩa (cho khoa học). Giá trị thật sự một bài báo cuối cùng nằm ở sự quan tâm của cộng đồng khoa học tới nó chứ không phải nó được đăng ở tạp chí nào. Nói cách khác, chính các bài báo xác định chất lượng tạp chí. Yếu tố quốc tế trong một nghiên cứu khoa học nằm ở chỗ nghiên cứu đó có được quốc tế quan tâm không, quốc tế ở đây bao hàm cả trong nước và ngoài nước. Như vậy phải khuyến khích những đề tài khoa học thuộc những lĩnh vực được nhiều người trên thế giới quan tâm. Cái giá phải trả đối với các nhà khoa học ở đây tất nhiên là tính cạnh tranh sẽ cao, số lượng bài báo, công trình sẽ ít. Như vậy để có thể tăng yếu tố quốc tế trong nghiên cứu khoa học, vai trò của quản lý khoa học là rất quan trọng. Hội đồng nghiệm thu, xét duyệt phải có khả năng thực sự trong viện nghiệm thu các đề tài dựa trên chất lượng chứ không phải chỉ dựa trên số lượng công trình được công bố xuất bản.

Một khi các “hội đồng xét duyệt” có đủ khả năng kiểm định chất lượng công trình chứ không phải chỉ làm công tác ``thống kê'' thì yếu tố quốc tế trong việc đăng công trình không phải là hết sức quan trọng nữa.

3. Quốc tế hóa các tạp chí trong nước

Một tiêu chí cho một nền khoa học mạnh chính là những tạp chí khoa học tốt. Liên Xô trong thời kỳ mới thành lập đẵ từng cấm các nhà khoa học gửi công trình ra nước ngoài. Ngày nay với xu hướng hội nhập, việc cấm như vậy đã lỗi thời. Tuy nhiên nếu chúng ta khuyến khích các nhà khoa học gửi công trình của mình ra nước ngoài vô hình trung chúng ta đã làm yếu đi chất lượng các tạp chí trong nước.

Một nhà khoa học đăng công trình của mình trên một tạp chí quốc tế có uy tín không phải chỉ để dùng nó đăng ký đề tài. Quan trọng hơn cả đối với một nhà khoa học là muốn khẳng định mình. Thứ nữa là nhu cầu “công bố quốc tế” để thông báo với các đồng nghiệp khác. Một tạp chí tốt là một tạp chí có nhiều người đọc, và vì thế có thể dễ dàng tìm đọc được (vì được nhiều nơi đặt mua). Tình trạng tạp chí của Việt Nam hiện nay không chỉ là không có ai đọc mà còn là nếu muốn đọc cũng không tìm ra được. Vì thế việc quốc tế hóa các tạp chí của Việt nam bao gồm những việc sau:

a) quốc tế hóa ban biên tập cũng như cách làm việc của ban biên tập để nâng cao chất lượng tạp chí.

b) quốc tế hóa tạp chí theo nghĩa đưa lên mạng, trao đổi với các cơ sở khoa học khác.

c) khuyến khích các nhà khoa học trong nước đăng bài ở các tạp chí trong nước (với ban biên tập quốc tế).

Hiện nay có nhiều nhà khoa học Việt kiều có tâm huyết, có thể đảm nhận vai trò biên tập viên quốc tế cho các tạp chí trong nước.

4. Chiến lược đầu tư hợp lý

Cùng với giải pháp quốc tế hóa trong các quá trình quản lý, nghiên cứu và công bố khoa học, vấn đề còn lại là kinh phí khoa học.

Các cụ nhà ta có câu “có thực mới vực được đạo”. Điều đó hoàn toàn đúng trong đối với nghiên cứu khoa học ngày nay. Không có kinh phí khoa học sẽ không hoạt động được, ngay cả trong những ngành cần ít kinh phí nhất như Toán học. Để có được một nền khoa học ngang tầm khu vực không có cách nào khác, chúng ta phải bỏ ra khoản kinh phí như các nước trong khu vực. Chúng ta thường hay nói với nhau rằng người Việt nam thông mình, cần cù...Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào trên thế giới chứng minh được rằng người Việt nam thông minh hơn các dân tộc khác trong khu vực. Thực tế khoa học Việt nam thì rõ ràng đang chứng minh điều ngược lại. Ngay cả trong “lĩnh vực” và chúng ta thường tự hào là “thi học sinh giỏi Toán quốc tế” thì Thái lan cũng đang bám sát chúng ta. (Nếu theo dõi trong mấy năm gần đây thì có thể thấy ngay cả trong ``lĩnh vực'' này chúng ta cũng đang đi xuống (không kể kết quả sân nhà năm 2007) còn Thái lan thì đang đi lên).

Tóm lại chúng ta không thể duy ý chí trong nghiên cứu khoa học được. Muốn có những công trình ở tầm quốc tế, bất kể là Toán hay Sinh vật, thì kinh phí cho nó cũng phải ở tầm quốc tế. Khi mà một GS ở một trường đại học hay một viện nghiên cứu nói chung chưa có phòng làm việc riêng, chưa kể tất cả các đòi hỏi khác cho công tác nghiên cứu, thì không thể đòi hỏi họ cho ra công trình chất lượng quốc tế được. Cái khó của chúng ta là nguồn kinh phí có hạn. Nhưng chúng ta cũng tự làm khó mình với cách đầu tư dàn trải và không hiệu quả, với tình trạng chạy chọt trong việc phân chia kinh phí. Như vậy song song với việc cải tổ quá trình xét duyệt và phân chia kinh phí, chọn ra được những đề tài được sự quan tâm cao của cộng đồng khoa học, được thực hiện bởi những nhà khoa học thực sự có khả năng, thì Nhà nước phải có chiến lược đầu tư hợp lý.

----------------

*Viện Toán học và ĐHTH Duisburg-Essen.

PGS.Phùng Hồ Hải*

(Theo Tia Sáng)

NỘI DUNG KHÁC

Những mong ước của một cô bé 13 tuổi ở nông thôn Trung Quốc

30-11-2007

Tâm sự cảm động thế giới của một bé gái Trung Quốc 13 tuổi đã làm xôn xao cả thế giới xuất bản. Mã Yến, một cô bé người dân tộc Hồi 13 tuổi, được làm khách mời tại Hội chợ sách Paris 2004. Nhật ký Mã Yến đã trở thành best-seller với lượng tiêu thụ hơn 45.000 bản. Cuốn sách lập tức được dịch ra 8 thứ tiếng và trở thành một hiện tượng. Đến nay, ngoài Pháp và Trung Quốc, Nhật ký Mã Yến đã được in ở Italia, Thụy Điển, Hà Lan, Nhật Bản, Hy Lạp, Đài Loan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh và sắp tới là Mỹ. Báo chí phương Tây viết về em như một tiếng nói đặc sắc của Trung Quốc. Ngay tại đại lục, Nhật ký Mã Yến cũng khiến em trở nên nổi tiếng: hàng loạt tờ báo viết về em, truyền hình Trung ương Trung Quốc 3 lần mời em làm khách mời. Nhật ký Mã Yến thực sự là một câu chuyện cổ tích của thế giới xuất bản.

Phân tích rủi ro: Thông lệ quốc tế và vận dụng cho Việt Nam

30-11-2007

Sáng ngày 21/11/2007, Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP), Bộ Công thương đã tổ chức buổi tọa đàm về “phân tích rủi ro”. Đây là hoạt động trong hợp phần SPS/TBT nhằm đề xuất một cơ cấu tổ chức phù hợp cho Việt Nam trong việc thực hiện một trong các quy định của Hiệp định kiểm dịch động thực vật (SPS) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Nông dân Trung Quốc đang thu lợi nhờ thị trường giao dịch nông sản kỳ hạn

26-11-2007

Sự phát triển nhanh chóng của thị trường kỳ hạn ở Trung Quốc không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng về chủng loại sản phẩm. Số lượng và kim ngạch giao dịch kỳ hạn năm 2000 đạt 3,9 nghìn tỷ (tương đương 8697 tỷ VND), 1390 vạn lượt. Từ tháng 1-9 năm 2007, số lượng giao dịch giao hàng kỳ hạn đạt 4600 vạn lượt, kim ngạch giao dịch đạt 26 nghìn tỷ NDT (57,2 nghìn tỷ).

Trung Quốc xét giảm diện tích xin cấp đất sử dụng của địa phương

22-11-2007

Năm 2007 Chính phủ Trung Quốc đã xét giảm 30% tổng diện tích xin cấp đất sử dụng của các địa phương. Diện tích đất canh tác bị chiếm dụng đã giảm 17% so với năm 2006.

100 nghìn "Hộ trung tâm" trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng nông thôn mới

20-11-2007

Tỉnh Hắc Long Giang có một số "Hộ trung tâm" nông thôn tuyên truyền thời sự, hòa giải mâu thuẫn, phổ biến kỹ thuật, tổ chức các hoạt động văn nghệ và thể thao, họ dẫn dắt bà con học và làm, đã trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng nông thôn mới.

Hợp tác kinh tế Trung Quốc - Asian từ giới hạn ba lĩnh vực chuyển sang đa lĩnh vực

15-11-2007

Hội thảo trong thời gian diễn ra Hội chợ Trung Quốc - ASEAN lần thứ tư tại Nam Ninh, thủ phủ Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Trung Quốc. Phó Bộ trưởng Bộ Thương Mại Cao Hổ Thành đã chỉ rõ, kết cấu xuất nhập khẩu thương phẩm đang không ngừng thay đổi, các sản phẩm sơ cấp dần dần chuyển hướng sang phát triển các sản phẩm chế tạo công nghiệp như: sản phẩm cơ điện và sản phẩm kỹ thuật cao.

Báo cáo của Hồ Cẩm Đào tại Đại hội 17

12-11-2007

Chủ đề của Đại hội là: Dương cao ngọn cờ vĩ đãi chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, lấy lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng ’ba đại diện’ làm chỉ đạo, đi sâu quán triệt thực hiện quan điểm phát triển khoa học, tiếp tục giải phóng tư tưởng, kiên trì cải cách mở cửa, thúc đẩy phát triển khoa học, xúc tiến xã hội hài hoà, phấn đấu giành thắng lợi mới xây dựng toàn diện xã hội khá giả.

Doanh nghiệp Vân Nam không mặn mà với thị trường máy móc nông nghiệp Việt Nam

9-11-2007

Vân Nam là một tỉnh phía Tây Nam Trung Quốc, có diện tích 380.000 km2, nằm trên cao nguyên Vân Quý với dân số trên 40 triệu người thuộc 24 dân tộc. Phía đông nam của Vân Nam, Trung Quốc giáp với biên giới Lào Cai Việt Nam, vì thế nên vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, địa hình để phát triển nông nghiệp ở Vân Nam và Việt Nam rất giống nhau.

11 thành phố hấp dẫn khoe sắc khoe mầu của Trung Quốc-ASEAN

8-11-2007

Bắt đầu từ Hội chợ Trung Quốc-ASEAN lần thứ tư , Hội chợ hàng năm đều sẽ lựa chọn một lĩnh vực hợp tác trọng điểm giữa Trung Quốc và ASEAN làm chủ đề, hợp tác cảng biển đã trở thành chủ đề hợp tác của Hội chợ năm nay. Để phối hợp với chủ đề này, Trung Quốc và 10 nước ASEAN đều đã chọn một thành phố cảng trong nước mình làm "thành phố hấp dẫn " để giới thiệu với mọi người diện mạo tràn đầy sức sống và những nét độc đáo của thành phố này.

Kinh tế Quảng Tây tăng trưởng cao nhất trong 10 năm trở lại đây

2-11-2007

Cuộc họp báo ngày 26 tháng 10 vừa qua Cục Thống kê tỉnh Quảng Tây đã công bố tình hình phát triển của toàn tỉnh trong 3 tháng đầu năm nay nhìn chung thu nhập của nhân dân Quảng Tây đều tăng, những chỉ tiêu kinh tế chủ yếu về công nghiệp, đầu tư, chi phí tiêu dùng, xuất nhập khẩu, thu nhập tài chính... đều tăng nhanh, tổng quan phát triển kinh tế của toàn tỉnh tốt hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái và dự đoán phát triển trong năm nay.

Rau Trung Quốc sang Nhật giảm mạnh: Cơ hội cho rau Việt Nam

29-10-2007

Theo thông tin từ Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, hiện nay lượng rau củ Trung Quốc xuất sang Nhật Bản đang ngày càng giảm mạnh. Đây được coi là cơ hội tốt cho rau củ Việt Nam tranh thủ xâm nhập vào thị trường này.

Trung Quốc-Chính sách “Tam nông ”bước vào giai đoạn phát triển nhất trong lịch sử

24-10-2007

Chính sách “Tam nông ”bước vào giai đoạn phát triển nhất trong lịch sử, sản xuất lương thực tăng hàng năm, thu nhập của nông dân tăng, nông thôn phát triển toàn diện. Ngân sách Trung ương dành hỗ trợ các dự án “Tam nông ” không ngừng tăng, năm nay đạt 3917 tỷ NDT (tương đương 861.7 tỷ đồng). Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn (NNNT) không ngừng cải thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa đã đạt được những bước đột phá quan trọng