ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Khai thác cát ngoài khơi - Phát triển kinh tế bền vững

Ngày đăng: 10 | 04 | 2024

Hiện nay, nhu cầu sử dụng cát làm vật liệu xây dựng đang tăng lên rất cao, gây ra tình trạng khan hiếm vật liệu san lấp, ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng xây dựng công trình. Để khắc phục tình trạng này, khai thác cát ngoài khơi là giải pháp tối ưu giúp phát triển kinh tế bền vững và giảm tác động tiêu cực đến môi trường.

Tiềm năng cát biển ngoài khơi

Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là hệ thống đường cao tốc, cảng hàng không, bến cảng, hạ tầng đô thị, hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, hạ tầng thủy lợi chống xói lở bờ sông - bờ biển.

Điều đó đã dẫn đến nhu cầu về vật liệu xây dựng nói chung và nhu cầu cát san lấp, cát xây dựng nói riêng tăng lên rất cao. Một số vùng đã xảy ra khan hiếm vật liệu san lấp, gây ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng xây dựng công trình, đặc biệt là vùng đồng bằng Sông Cửu Long và một số vùng kinh tế ven biển.

Trong bối cảnh nhiều dự án kết cấu hạ tầng gặp vướng mắc về nguồn cung vật liệu cát để san lấp, đắp nền, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung nghiên cứu, đưa ra các giải pháp khả thi nhằm sớm giải quyết vấn đề cấp bách này.

Trước tình hình đó, Bộ TN&MT cùng các Bộ ngành liên quan đã đề xuất nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, như: tăng công suất khai thác cát sông lên 150% và hơn nữa; đánh giá tài nguyên và thí điểm sử dụng cát biển làm vật liệu san lấp nền đường cao tốc; phát triển cát nhân tạo (cát nghiền từ đá, chất thải rắn từ khai thác mỏ); nghiên cứu xây dựng cầu cạn ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long để giảm sử dụng vật liệu san lấp…

Cát sông đang trở nên khan hiếm

Trong đó, việc đánh giá tài nguyên và nghiên cứu khả năng sử dụng cát biển đã được Cục Địa chất Việt Nam triển khai trong năm 2023 và thu được nhiều kết quả khả quan. Bộ Giao thông vận tải đã thí điểm sử dụng cát biển vùng biển Trà Vinh - Sóc Trăng san lấp nền đường cao tốc, kết quả cho thấy cát biển cơ bản đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật.

Ông Nguyễn Tiến Thành, Liên đoàn trưởng Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản Biển, Cục Địa chất Việt Nam cho biết: Tiềm năng cát biển ngoài khơi ở Việt Nam vô cùng lớn nhưng chưa được đánh giá toàn diện. Bên cạnh những thuận lợi như: sự thống nhất về chủ trương của Đảng và Chính phủ, sự sẵn sàng của các doanh nghiệp và hỗ trợ nhiệt tình của các đối tác quốc tế, hiện Việt Nam còn thiếu cơ sở pháp lý hướng dẫn khai thác và bảo vệ môi trường; hiện trạng năng lực chưa đảm bảo; truyền thông còn hạn chế…

Để giải quyết những thách thức trên, thời gian tới, Việt Nam cần tiếp cận, chuyển giao công nghệ khai thác cát ngoài khơi; công nghệ xử lý tuyển rửa cát biển làm vật liệu xây dựng; xây dựng quy định đánh giá tác động khai thác cát biển đến môi trường phù hợp quy định quốc tế; hoàn thiện và ban hành quy định quản lý về thăm dò, khai thác, sử dụng cát biển; đẩy mạnh điều tra, đánh giá và khai thác tài nguyên cát biển ngoài khơi (lớn hơn 20m nước); đẩy mạnh truyền thông về sử dụng cát biển và bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế.

Sử dụng cát ngoài khơi - giải pháp tối ưu

Trước những đề xuất trên, có thể thấy, Việt Nam có nhu cầu cao về tăng trưởng kinh tế và hướng tới phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa, do đó nhu cầu sử dụng cát là vô cùng lớn.

Dẫn chứng cho điều này, ông Sander Carpaij - Giám đốc Chương trình Quốc tế về Nước và Thích ứng Khí hậu, Chủ nhiệm Ban Hợp tác Việt Nam - Hà Lan về đồng bằng, Bộ Cơ sở hạ tầng và Quản lý Tài nguyên Nước Hà Lan cho biết, nhu cầu cát xây dựng sẽ tăng 200-250 triệu m3 trong năm 2030, trung bình một năm cần 525-575 triệu m3 cát san lấp và Việt Nam quyết tâm trở thành quốc gia mạnh về hàng hải vào năm 2030, cùng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng làm tăng nhu cầu cát bảo vệ bờ biển.

Có thể thấy, các nguồn cát truyền thống trên bờ như cát sông đang trở nên cạn kiệt do khai thác quá mức, và có tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội. Chính sách khai thác cát bền vững cho Việt Nam là nhu cầu cấp thiết và cần có chính sách cho nguồn cát bổ sung một cách bền vững, trong đó sử dụng tài nguyên cát biển là giải pháp thay thế vô cùng khả thi và trọng tâm mà nền kinh tế biển xanh đang hướng tới.

Sà lan vận chuyển cát tại Tiền Giang

Tuy nhiên, việc khai thác cát biển không ảnh hưởng đến hệ sinh thái là vấn đề cần được quan tâm. Về vấn đề này, ông Dirkjan van den Boom - Quản lý khu vực Châu Á, Tập đoàn Boskalis (Hà Lan) cho biết, tác động của nước biển dâng từ bão lũ, các yếu tố khác và việc khai thác cát có những tác động tiêu cực đến môi trường và bờ biển. Chính vì vậy, cần có những điều kiện để giảm thiểu những tác hại đến môi trường biển.

Ông đề xuất, để khai thác cát ngoài khơi, Việt Nam cần trang bị về công nghệ, đưa ra phân tích, khảo sát thực tế cũng như đưa ra yêu cầu khu vực khai thác, kế hoạch vận hành để đảm bảo việc khai thác không ảnh hưởng đến hệ sinh thái.

Trong bối cảnh Việt Nam khai thác cát có thể làm ảnh hưởng đến đáy biển, thay đổi về hình thái, xáo trộn chất lượng nước, mất sinh vật đáy biển, giảm năng suất của sinh thái cũng như làm giảm nguồn lợi thủy sản, Việt Nam cần thận trọng trong triển khai hoạt động khai thác cát ngoài khơi.

Theo ông Dirkjan van den Boom, Việt Nam cần đưa ra các kịch bản khác nhau trong tương lai, hậu quả đến đường bờ biển như thế nào, hệ sinh thái ra sao,… Trên cơ sở đó đánh giá tác động đến đường bờ biển, các hành động và nhu cầu để giảm thiểu ảnh hưởng của việc khai thác cát đến hệ sinh thái biển.

Cũng đề xuất giải pháp khai thác cát ngoài khơi bền vững, ông Michiel van der Ruijt - Quản lý khu vực, Tập đoàn Van Oord (Hà Lan) cho rằng, nên có những biện pháp giảm thiểu khả năng gây xói lở, sụt lút ven bờ biển bằng cách dựa vào tự nhiên và tận dụng nguồn lực từ thiên nhiên để có thể giải quyết các tác nhân dọc bờ biển như sử dụng cát xây dựng vùng kè tránh xói lở vùng bờ.

Mai Đan - Thu Trang

(Theo monre.gov.vn)

NỘI DUNG KHÁC

Những nội dung trọng tâm và các yêu cầu, nhiệm vụ chủ yếu để triển khai Luật Tài nguyên nước năm 2023

11-4-2024

 Luật Tài nguyên nước (TNN) năm 2023 quy định về quản lý, bảo vệ, điều hòa, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng TNN; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật đã được Quốc hội khóa XV thông qua vào kỳ họp thứ 6 ngày 27/11/2023 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Bài viết đề cập đến những điểm mới, nội dung trọng tâm và các yêu cầu, nhiệm vụ, công việc chủ yếu cần tiến hành đối với Luật TNN năm 2023.

Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2024

12-4-2024

 Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường (đặc biệt trong những năm gần đây), tình hình tranh chấp đất đai (TCĐĐ) ngày càng tăng về số lượng lẫn tính chất phức tạp về nội dung. Do đó, pháp luật về giải quyết TCĐĐ ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết TCĐĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, một số quy định về giải quyết TCĐĐ trong Luật Đất đai 2013 đã bộc lộ hạn chế, thiếu tính đồng bộ, thống nhất với các luật chuyên ngành trong hệ thống pháp luật. Do dó, Luật Đất đai năm 2024 đã có những sửa đổi, bổ sung về giải quyết TCĐĐ. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích những điểm mới về giải quyết TCĐĐ; qua đó chỉ ra những nội dung cần tiếp tục làm rõ để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong công tác giải quyết TCĐĐ trong thời gian tới.

Một số đề xuất, khuyến nghị để hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên

15-4-2024

Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quan trọng của quốc gia và hầu hết là tài nguyên không tái tạo được, cần được quản lý, bảo vệ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng phát triển kinh tế bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. Chính sách thuế tài nguyên được xác định là một công cụ tài chính hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.

Đề án một triệu ha lúa giảm phát thải - Cơ hội và thách thức

16-4-2024

Ngành lúa gạo có vai trò quan trọng trong ổn định xã hội và đóng góp cho phát triển kinh tế Việt Nam, trong đó, ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đóng góp 50% sản lượng lúa gạo và 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, trái ngược với những thành công rực rỡ của ngành lúa gạo thì hiện nay, thu nhập của người nông dân trồng lúa là thấp nhất trong ngành nông nghiệp và ngành lúa gạo đang đóng góp lượng phát thải khí nhà kính (KNK) lớn nhất (khoảng 50% lượng phát thải KNK của ngành nông nghiệp). Nhiều hạn chế từ ngành sản xuất lúa gạo đã và đang giảm sự phát triển bền vững của ngành trong bối cảnh hiện tại.

Cần khắc phục ô nhiễm môi trường ở Việt Nam một cách quyết liệt và hiệu quả hơn

17-4-2024

Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới, chúng ta còn nhiều việc phải làm, đặc biệt là vấn đề phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường.

Chính sách công nghiệp xanh hướng tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam

21-4-2024

Công nghiệp xanh đang trở thành xu hướng phát triển đem lại hiệu quả trong tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường. Trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm phát triển công nghiệp xanh, bảo đảm quá trình thực hiện có thể tối ưu hóa hiệu quả lợi ích từ cấp địa phương đến toàn bộ nền kinh tế, hướng tới sự phát triển bền vững.

Thị trường tín chỉ carbon: Lý luận và giải pháp

21-4-2024

Trong bối cảnh vận hành thị trường carbon dường như là tất yếu, việc cân nhắc đến tiềm năng phát triển thị trường carbon rừng của Việt Nam không chỉ là giải pháp đóng góp vào các mục tiêu giảm phát thải mà còn góp phần đem lại lợi ích kinh tế cho những người dân có sinh kế phụ thuộc vào rừng.

Nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam - Cơ hội và thách thức

22-4-2024

Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra từ năm 2008, lúc đó trên thế giới nhận thấy sự cần thiết phải thúc đẩy kinh tế xanh và chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP) tháng 10/2008 đã đưa ra sáng kiến kinh tế xanh. Năm 2011, UNEP đưa ra định nghĩa về kinh tế xanh như sau: “Nền kinh tế xanh giúp cải thiện đời sống và công bằng xã hội, trong khi giảm đáng kể các rủi ro môi trường và khan hiếm nguồn lực sinh thái. Một nền kinh tế xanh có thể được coi là một nền kinh tế có lượng phát thải carbon thấp, sử dụng tài nguyên hiệu quả và bao trùm xã hội”. Như vậy, một nền kinh tế xanh là một nền kinh tế có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội.

Quản trị nguồn nhân lực xanh: Xu thế tất yếu cho mục tiêu phát triển bền vững

23-4-2024

Quản trị nguồn nhân lực là một trong những công việc quan trọng của quản lý tổ chức. Dưới góc độ bền vững, quản trị nguồn nhân lực xanh là yếu tố quan trọng nhất của sự bền vững. Bài viết này khái quát các hoạt động quản trị nguồn nhân lực xanh của các tổ chức, những hạn chế hoặc rào cản trong quản trị nguồn lực xanh, qua đó đề xuất một số sáng kiến tiềm năng cho các tổ chức xanh.

Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Mã thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050

24-4-2024

Quy hoạch tổng hợp LVS Mã thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, có phạm vi lập quy hoạch bao gồm toàn bộ diện tích LVS Mã nằm trong lãnh thổ Việt Nam thuộc địa giới hành chính các tỉnh: Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa và Nghệ An, được phân chia thành 8 tiểu vùng quy hoạch gồm: thượng sông Mã; trung sông Mã; Nam sông Mã - Bắc sông Chu; Bắc sông Mã; LVS Bưởi; LVS Âm; thượng sông Chu; Nam sông Chu.

Tổng quan hạch toán tích hợp kinh tế - môi trường đối với tài nguyên nước và kiến nghị áp dụng cho Việt Nam

26-4-2024

 Hạch toán tài nguyên nước (TNN) là quá trình tổng hợp, tính toán, cân đối nguồn nước, xác định giá trị TNN trong các hoạt động kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh nguồn nước. Kết quả hạch toán TNN được sử dụng để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc điều hòa, phân phối và thực hiện các giải pháp quản lý khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp phân tích tại bàn, phân tích chính sách nhằm giới thiệu phương pháp, ý nghĩa hạch toán tích hợp kinh tế - môi trường đối với TNN, từ đó kiến nghị áp dụng cho Việt Nam.

Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh tại Việt Nam

2-5-2024

 Nông nghiệp xanh (NNX) hiện được xem là hướng tiếp cận, là phương pháp mới trong lĩnh vực nông nghiệp, nhằm cân nhắc giữa sự phát triển sản xuất nông nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững (PTBV). NNX tập trung vào sử dụng các phương pháp canh tác thông minh, phân bón hữu cơ, giảm sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu, áp dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm, đặc biệt là sử dụng công nghệ số để quản lý. Mục tiêu của NNX là tạo ra năng suất cao và bền vững, giảm tác động tiêu cực đến môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, cải thiện chất lượng đời sống của người nông dân. Sản xuất NNX dựa trên tiền đề tôn trọng tự nhiên, với mục tiêu phối hợp giữa lợi ích về kinh tế - xã hội và sinh thái, đồng thời, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại để tích cực tham gia vào quá trình phát triển, nhân giống. Thúc đẩy sản xuất xanh trong nông nghiệp mở ra cơ hội lớn, vừa góp phần nâng cao năng suất, vừa BVMT, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bài viết chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển NNX của một số quốc gia trên thế giới, từ đó đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển NNX tại Việt Nam trong thời gian tới.