ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Những nội dung trọng tâm và các yêu cầu, nhiệm vụ chủ yếu để triển khai Luật Tài nguyên nước năm 2023

Ngày đăng: 11 | 04 | 2024

 Luật Tài nguyên nước (TNN) năm 2023 quy định về quản lý, bảo vệ, điều hòa, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng TNN; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật đã được Quốc hội khóa XV thông qua vào kỳ họp thứ 6 ngày 27/11/2023 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Bài viết đề cập đến những điểm mới, nội dung trọng tâm và các yêu cầu, nhiệm vụ, công việc chủ yếu cần tiến hành đối với Luật TNN năm 2023.

1. Những điểm mới, nội dung trọng tâm

     1.1. Chính sách bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia

    Các chính sách liên quan đến an ninh nguồn nước được thể hiện xuyên suốt trong các Chương, Điều của Luật TNN năm 2023, bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), quốc phòng, an ninh, môi trường và giảm thiểu rủi ro, tác hại từ các thảm họa do con người và thiên nhiên gây ra liên quan đến nước. Đồng thời, Luật có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư khai thác nước cấp cho sinh hoạt, sản xuất cho người dân các vùng khan hiếm nước ngọt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện KT - XH khó khăn, địa bàn có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn; tạo điều kiện tiếp cận nước sinh hoạt cho người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và các đối tượng dễ bị tổn thương khác.

    Điều hòa, phân phối TNN: Trong điều kiện phần lớn TNN quốc gia có nguồn gốc từ nguồn nước xuyên biên giới, việc điều hòa, phân phối TNN là một trong những điểm mới, cốt lõi trong việc quản lý, sử dụng, bảo vệ TNN hiệu quả. Quy định một số nguyên tắc chung trong quản lý, khai thác, sử dụng TNN theo các Luật chuyên ngành sau khi được điều hòa, phân phối TNN từ Luật này. Cụ thể, Luật TNN năm 2023 quy định việc xây dựng kịch bản nguồn nước; quy định hoạt động điều hòa, phân phối TNN thông qua việc điều tiết chế độ vận hành các hồ chứa, đập dâng, công trình khai thác, sử dụng nước và điều phối hoạt động khai thác, sử dụng nước trên lưu vực sông, hướng tới việc điều hòa, phân phối TNN bằng hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực; lập kế hoạch khai thác, sử dụng TNN của các ngành sử dụng nước phù hợp với điều kiện nguồn nước... Trong đó, quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng, thực hiện phương án điều hòa, phân phối TNN và các biện pháp ứng phó, khắc phục tình trạng thiếu nước xảy ra (nếu có). Đặc biệt, Luật TNN năm 2023 quy định trong trường hợp hạn hán, thiếu nước thì hạn chế phân phối TNN cho các hoạt động sử dụng nhiều nước, chưa cấp thiết và ưu tiên cấp nước cho sinh hoạt, các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Đồng thời, trong Luật đã quy định rõ nhiệm vụ của tổ chức lưu vực sông trong việc thực hiện nhiệm vụ điều phối, giám sát TNN (khoản 4 Điều 81).

    Một trong những công cụ để điều hòa, phân phối TNN là việc xác định dòng chảy tối thiểu: Luật quy định cụ thể các trường hợp phải xác định dòng chảy tối thiểu; nguyên tắc, căn cứ và trách nhiệm xác định, công bố dòng chảy tối thiểu đối với nước mặt và xác định ngưỡng khai thác nước dưới đất đối với nước ngầm.

    Đối với hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước: Luật bổ sung quy định về ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình điều tiết, trữ nước tại các vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước; tận dụng các moong khai thác khoáng sản, đất, vật liệu xây dựng sau khi dừng khai thác tạo thành hồ để điều hòa, tích trữ, tạo cảnh quan sinh thái, phòng, chống ngập lụt, cấp nước dự phòng.

    Với nguyên tắc và quan điểm quản lý TNN theo lưu vực sông: Luật quy định rõ nội dung về quy hoạch tổng hợp lưu vực sông để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,… tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực. Trong đó, nhấn mạnh việc phân bổ TNN tuân thủ theo quy hoạch, kịch bản nguồn nước.

    Luật TNN năm 2023 đã bổ sung, làm rõ nguyên tắc trong quản lý TNN là: TNN phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng, giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng lưu và hạ lưu; phân công, phân cấp rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN, nguồn nước với trách nhiệm quản lý nhà nước về quy hoạch, xây dựng, vận hành công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, cấp nước nông thôn. Theo đó, Luật TNN năm 2023 quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ có liên quan trực tiếp đến khai thác, sử dụng TNN gồm: Bộ TN&MT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Tài chính... trên cơ sở chức năng nhiệm vụ đã được giao theo Luật Tổ chức Chính phủ và các luật có liên quan đến TNN để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo, nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý TNN.

    Nhằm cụ thể hóa quan điểm quản trị TNN, Luật TNN năm 2023 đã thể hiện rõ định hướng hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý TNN hướng tới quản trị TNN quốc gia trên nền tảng công nghệ số. Trong Luật đã bổ sung các quy định về Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu TNN quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định. Việc sử dụng nền tảng công nghệ số trong quản lý TNN sẽ hỗ trợ các Cơ quan quản lý trong quá trình quy hoạch, xây dựng kịch bản nguồn nước; phương án điều hòa phân phối TNN và ra quyết định điều hòa, phân phối TNN, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, đặc biệt khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông. Cở sở dữ liệu quốc gia cũng sẽ được chia sẻ với các cơ sở dữ liệu của các Bộ quản lý khai thác, sử dụng nước chuyên ngành để ứng dụng trong thực hiện quy hoạch, xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước hiệu quả, phù hợp với tình trạng TNN quốc gia và trong từng tình huống cụ thể. Đồng thời, giảm thiểu nhân lực, chi phí vận hành, quản lý và huy động được sự tham gia của người dân, của các thành phần kinh tế đối với hoạt động này.

    1.2. Chính sách xã hội hóa ngành nước

    Luật TNN năm 2023 quy định các chính sách để khuyến khích sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội đối với các tất cả các hoạt động liên quan đến TNN, từ quản lý, điều hòa, phân phối đến bảo vệ, phát triển và khai thác, sử dụng TNN theo từng cấp độ từ khuyến khích, đến hỗ trợ đầu tư, miễn giảm thực hiện nghĩa vụ liên quan tùy theo lĩnh vực và phạm vi tham gia, đóng góp. Đồng thời, Luật khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản TNN; bảo vệ, phát triển nguồn nước, nguồn sinh thủy; tích trữ nước và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; điều hòa, phân phối TNN; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra; khuyến khích tổ chức, cá nhân xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến để quản lý, bảo vệ, phục hồi, phát triển nguồn nước; khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước; xử lý nước biển thành nước ngọt ở những vùng khan hiếm nước mặt, không có nước dưới đất; thu gom, sử dụng nước mưa, bổ sung nhân tạo nước dưới đất; phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra (Điều 4); tài trợ, hỗ trợ, ứng dụng công nghệ mới trong xây dựng, quản lý, vận hành, duy trì Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu TNN quốc gia; chia sẻ, cập nhật thông tin, dữ liệu về TNN do mình thực hiện vào Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu TNN quốc gia và ưu tiên các tổ chức, cá nhân đó trong khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu của Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu TNN quốc gia (Điều 7).

    Đồng thời, khuyến khích địa phương, tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng hoặc đóng góp kinh phí xây dựng, vận hành hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định để vận hành hồ chứa, liên hồ chứa bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả (Điều 38); khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu giải pháp và thực hiện việc bổ sung nhân tạo nước dưới đất (Điều 39); Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng, vận hành công trình quan trắc TNN và cung cấp số liệu quan trắc TNN cho cơ quan quản lý nhà nước về TNN (Điều 51)…; Bổ sung quy định về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển TNN, trong đó có nguồn vốn xã hội hóa. Quy định các hoạt động đầu tư phát triển, tích trữ nước và phục hồi nguồn nước ưu tiên thực hiện theo hình thức xã hội hóa. Với quan điểm là phát triển kinh tế gắn liền với việc “đầu tư lại’’ trong công tác bảo vệ, phục hồi, phát triển TNN, Luật đã quy định chính sách miễn giảm thuế, phí để khuyến khích các hoạt động phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; xây dựng các công trình phát triển, tích, trữ nước, điều tiết nguồn nước theo hình thức xã hội hóa (Điều 73).

    1.3. Chính sách kinh tế TNN

    Với quan điểm nước là tài nguyên hữu hạn, cần có công cụ kinh tế để quản lý, sử dụng và khai thác hiệu quả trên cơ sở vừa khai thác, vừa bảo vệ và phát triển thêm nguồn nước, Luật TNN năm 2023 đã quy định rõ nguyên tắc khai thác, sử dụng TNN phải được kê khai, đăng ký, cấp phép, phù hợp với khả năng đáp ứng của nguồn nước theo phương án điều hòa, phân phối TNN và phù hợp với quy hoạch về TNN; bảo đảm sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, tiết kiệm, hiệu quả. Ngoài ra, Luật đã quy định rõ nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động TNN gồm thuế, phí về TNN; tiền cấp quyền khai thác TNN; tiền bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TNN theo quy định của pháp luật (Điều 67, 68, 69); bổ sung đối tượng nộp tiền cấp quyền khai thác TNN đối với nước sinh hoạt và thu tiền cấp quyền khai thác theo lộ trình đối với sản xuất nông nghiệp, quy định về miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác TNN; bổ sung quy định về hạch toán TNN nhằm tính đúng giá trị của TNN trong các hoạt động phát triển KT - XH, phục vụ công tác điều hòa phân bổ TNN trên các lưu vực sông.

    Luật cũng quy định về dịch vụ về TNN (Điều 70), gồm dịch vụ hỗ trợ ra quyết định điều hòa, phân phối TNN; dịch vụ hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ chứa, liên hồ chứa để nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng nước. Luật cũng đã bổ sung một số quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí, bảo vệ nguồn nước trong các hoạt động khai thác, sử dụng nước. Trong đó, Luật bổ sung quy định cụ thể về việc tuần hoàn, tái sử dụng nước, tại các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, UBND cấp tỉnh có kế hoạch, lộ trình quy định các loại dự án phải có phương án tái sử dụng nước và các hình thức ưu đãi theo quy định của pháp luật.

    1.4. Bảo vệ TNN, phòng, chống tác hại do nước gây ra

    1.4.1. Bảo vệ và phát triển TNN

    Điểm mới trong Luật đã tách bạch việc quản lý nước mặt và nước dưới đất; việc bảo vệ TNN dựa trên cơ sở phân định chức năng nguồn nước (Điều 22). Theo đó, chức năng nguồn nước là một trong các căn cứ để lựa chọn các giải pháp bảo vệ nguồn nước, cải tạo, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; quyết định việc chấp thuận, phê duyệt, cấp phép cho các dự án có xả nước thải vào nguồn nước theo quy định của pháp luật về BVMT; chức năng nguồn nước được xác định căn cứ vào hiện trạng, nhu cầu khai thác, sử dụng nước của các ngành, địa phương, yêu cầu về bảo vệ, bảo tồn hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, giá trị văn hóa, đa dạng sinh học, hệ sinh thái thủy sinh, tạo cảnh quan, môi trường, trữ, tiêu thoát lũ và khả năng đáp ứng của nguồn nước. Nguồn nước mặt phải được phân vùng chức năng để thực hiện các biện pháp bảo vệ nguồn nước. Đồng thời, việc phân vùng chức năng nguồn nước mặt được xác định trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh đối với nguồn nước mặt liên tỉnh và trong quy hoạch tỉnh đối với nguồn nước mặt nội tỉnh. Quy định rõ trách nhiệm của Bộ TN&MT xác định, công bố chức năng đối với nguồn nước mặt liên tỉnh, UBND cấp tỉnh xác định, công bố chức năng đối với nguồn nước mặt nội tỉnh.

    Ngoài quy định về phát triển nguồn nước, bảo vệ số lượng nước, Luật còn quy định về hành lang bảo vệ nguồn nước, phạm vi, đối tượng phải lập hành lang bảo vệ nguồn nước, trách nhiệm bảo vệ hành lang bảo vệ nguồn nước (Điều 23); xác định dòng chảy tối thiểu để bảo vệ con sông, suối và duy trì lượng nước cho hạ du; quy định về bảo vệ nguồn sinh thủy (Điều 29) để bảo vệ chất lượng nguồn nước và hạn chế thất thoát nước.

    Bên cạnh quy định bảo vệ nguồn nước mặt, Luật có quy định riêng về bảo vệ nước dưới đất, ngưỡng khai thác nước dưới đất (Điều 30, 31). Việc khoan thăm dò, khai thác nước dưới đất là hoạt động kinh doanh có điều kiện, cần được quản lý nghiêm ngặt để bảo vệ an ninh nguồn nước dưới đất. Luật quy định việc khoan điều tra, khảo sát, thăm dò và khoan khai thác nước dưới đất phải do tổ chức, cá nhân có giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất thực hiện; xác định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện việc khoanh định, công bố, điều chỉnh danh mục vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; quyết định đưa ra khỏi danh mục vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất khi nguồn nước dưới đất đã phục hồi. Việc xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất phải bảo đảm hài hòa quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan và được xem xét, khoanh định tại các khu vực có mực nước dưới đất bị suy giảm liên tục và có nguy cơ vượt ngưỡng khai thác nước dưới đất; khu vực đã xảy ra sụt, lún đất hoặc có nguy cơ sụt, lún đất; khu vực có nguồn nước dưới đất có nguy cơ bị xâm nhập mặn để các địa phương chủ động trong công tác bảo vệ nguồn nước dưới đất.

    Quy định phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm và ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước (Điều 34). Theo đó, Luật đã bổ sung nhiều quy định, chính sách để phục hồi các dòng sông bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm, đặc biệt là các dòng sông “chết” như việc xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án phục hồi nguồn nước, trong đó, ưu tiên phục hồi các dòng sông, đoạn sông cạn kiệt, không có dòng chảy, ô nhiễm nghiêm trọng và bố trí nguồn lực thực hiện; quy định cụ thể một số giải pháp chính để thực hiện các hoạt động phục hồi nguồn nước (điều chỉnh chế độ vận hành, bổ sung, nâng cấp các công trình điều tiết, tích trữ nước, xây dựng các đập, hồ chứa, trạm bơm, công trình dẫn nước, nạo vét nhằm dâng nước, tiếp nước, khôi phục dòng chảy, cải thiện, nâng cao khả năng lưu thông dòng chảy, số lượng, chất lượng nguồn nước, bổ sung nhân tạo nước dưới đất; xử lý ô nhiễm môi trường; xử lý, kiểm soát nước thải; sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước).

    Đối với bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt: Luật bổ sung quy định giao cho Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương xây dựng danh mục công trình cấp nước sinh hoạt đặc biệt quan trọng và giao Bộ Công an có trách nhiệm xây dựng, tổ chức thực hiện phương án bảo vệ công trình cấp nước sinh hoạt đặc biệt quan trọng nhằm góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia...

    1.4.2. Phòng, chống tác hại do nước gây ra

    Luật đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm, nghĩa vụ phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân; trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND các cấp trong tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra; Quy định việc phòng, chống và khắc phục tác hại của lũ, lụt, nước biển dâng, mưa đá, mưa axít và các tác hại khác của nước do thiên tai gây ra được thực hiện theo quy định của pháp luật về đê điều, pháp luật về phòng, chống thiên tai và quy định khác của pháp luật có liên quan.

    Luật TNN năm 2023 chỉ quy định bổ sung việc phòng, chống hạn hán, thiếu nước, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo. Theo đó, Nhà nước đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng công trình tích trữ nước, tìm kiếm nguồn nước để chủ động ứng phó với tình trạng hạn hán, thiếu nước; xây mới, cải tạo, phục hồi các hồ, ao và các công trình khác có chức năng cấp nước, điều hòa, phòng, chống ngập úng nhân tạo; ưu tiên tận dụng các moong khai thác khoáng sản, đất, vật liệu xây dựng sau khi dừng khai thác và bảo đảm các quy định của pháp luật về BVMT, pháp luật về khoáng sản và quy định khác của pháp luật có liên quan tạo thành hồ chứa để điều hoà, tích trữ nước, cấp nước, tạo cảnh quan… Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình điều tiết, tích trữ nước tại khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, lụt để bảo đảm an toàn chống lũ, chống hạn, kiểm soát mặn…

    Về quy định phòng, chống xâm nhập mặn: Nhà nước đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng công trình ngăn mặn, giữ ngọt để chủ động ứng phó với tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; ưu tiên dự án trồng rừng phòng hộ chắn sóng tại vùng thường xuyên xảy ra xâm nhập mặn. Quy định rõ việc khai thác nước biển để sử dụng cho phát triển KT - XH không được gây nhiễm mặn nguồn nước; việc thăm dò, khai thác nước dưới đất ở vùng đồng bằng, ven biển phải bảo đảm phòng, chống xâm nhập mặn cho các tầng chứa nước dưới đất. Đồng thời, việc quản lý, vận hành công trình ngăn mặn, giữ ngọt và hồ chứa, công trình điều tiết nước phải tuân theo quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, bảo đảm phòng, chống xâm nhập mặn.

    Luật quy định cụ thể hơn về phòng, chống sụt, lún đất. Theo đó, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động khoan, thăm dò nước dưới đất phải tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có liên quan, bảo đảm không gây sụt, lún đất. Trường hợp xảy ra sụt, lún đất thì phải dừng ngay hoạt động thăm dò, khai thác nước dưới đất, thực hiện các biện pháp khắc phục và báo cho UBND nơi xảy ra sụt, lún đất; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Ở những khu vực bị sụt, lún đất hoặc có nguy cơ bị sụt, lún đất do hoạt động thăm dò, khai thác nước dưới đất gây ra thì phải tổ chức khoanh định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất. Trách nhiệm tổ chức khoanh định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất thuộc UBND cấp tỉnh.

    Đồng thời, Luật TNN năm 2023 bổ sung quy định về phòng, chống sạt lở lòng, bờ, bãi sông, hồ đối với các hoạt động cải tạo lòng, bờ, bãi sông, hồ, xây dựng công trình thủy, khai thác cát, sỏi và các khoáng sản khác trên sông, hồ, hành lang bảo vệ nguồn nước không được gây sạt lở, làm ảnh hưởng xấu đến sự ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ và hành lang bảo vệ nguồn nước. Các hoạt động có nguy cơ gây mất ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ phải thực hiện đánh giá tác động và có phương án thực hiện để bảo vệ, phòng, chống sạt lở lòng, bờ, bãi sông, hồ; việc đánh giá tác động và thẩm định phương án thực hiện để bảo vệ, phòng, chống sạt lở lòng, bờ, bãi sông, hồ được thực hiện trong quá trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường…

2. Yêu cầu, nhiệm vụ, công việc chủ yếu cần tiến hành để triển khai Luật

    2.1. Đối với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cần theo dõi, đôn đốc và giám sát Chính phủ, các cơ quan, tổ chức hữu quan tổ chức triển khai thi hành Luật; chú trọng giám sát việc ban hành văn bản quy định chi tiết. Tăng cường phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng, thực hiện kế hoạch ban hành văn bản quy định chi tiết để bảo đảm các văn bản này được ban hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật và có hiệu lực cùng với Luật.

    2.2. Với Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức liên quan

    Tuyên truyền sâu, rộng những điểm mới của Luật TNN năm 2023, đặc biệt là đối với các cấp chính quyền trong tổ chức thực hiện Luật; khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo đảm khi Luật có hiệu lực thi hành thì thực thi được ngay.

    Chính phủ cần chỉ đạo quyết liệt, bảo đảm nguồn lực và các điều kiện cần thiết cho công tác thi hành Luật; rà soát, ban hành theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo Bộ TN&MT, các Bộ, có liên quan kịp thời ban hành kế hoạch triển khai thi hành Luật. Sắp xếp thứ tự ưu tiên hợp lý, đầu tư nguồn lực để xây dựng, ban hành đầy đủ, chất lượng các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật, bảo đảm có cùng hiệu lực với thời điểm có hiệu lực của Luật. 

    Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện nghiêm túc, khẩn trương rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo nội dung của Luật TNN mới được ban hành, kịp thời phát hiện các quy định qua thi hành có phát sinh vướng mắc, mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập để sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với Luật TNN năm 2023.

    Bộ Xây dựng chủ trì xây dựng văn bản có nội dung quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để bảo đảm an toàn, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, giảm thiểu tỷ lệ thất thoát nước; rà soát, ban hành các văn bản có nội dung quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng công trình. Bộ Y tế rà soát, điều chỉnh, xây dựng văn bản có nội dung quy định về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt.

    Bộ TN&MT, UBND các tỉnh chủ trì tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến và tập huấn Luật TNN năm 2023 thông qua tổ chức các hội nghị quán triệt bằng hình thức trực tiếp, trực tuyến. Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các phương tiện thông tin đại chúng khác ở Trung ương và địa phương có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Luật với nhiều hình thức đến người dân và doanh nghiệp.

    Bộ TN&MT thực hiện các nhiệm vụ được giao trong Luật như: Xây dựng Chiến lược TNN quốc gia; lập quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; xác định, công bố chức năng nguồn nước đối với các nguồn nước mặt liên tỉnh; tổ chức lập danh mục nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm cần phục hồi; tổ chức xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định; xây dựng và công bố kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông thuộc danh mục lưu vực sông liên tỉnh phải lập quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh...

    Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương,  Bộ Xây dựng, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Quốc phòng thực hiện các nhiệm vụ được giao trong Luật.

    HĐND và UBND các cấp chủ động, trách nhiệm và sáng tạo, linh hoạt trong tổ chức thực hiện quy định pháp luật ở địa phương; đề ra lộ trình, giải pháp triển khai phù hợp, ban hành kịp thời các đề án, quy định, thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ của chính quyền địa phương trong triển khai Luật; đồng thời phát hiện sớm những bất cập trong quá trình thực hiện ngay từ cấp cơ sở để kiến nghị sửa đổi cho phù hợp, tháo gỡ vướng mắc, khơi thông những nút thắt thể chế để thúc đẩy phát triển, phát huy ý nghĩa, tác dụng thiết thực của các chính sách do Quốc hội ban hành. Đồng thời, thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về TNN tại địa phương được giao tại khoản 1 Điều 80 và các nhiệm vụ được giao trong Luật.

Nguyễn Thị Lệ Thủy

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 3/2024)

NỘI DUNG KHÁC

Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2024

12-4-2024

 Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường (đặc biệt trong những năm gần đây), tình hình tranh chấp đất đai (TCĐĐ) ngày càng tăng về số lượng lẫn tính chất phức tạp về nội dung. Do đó, pháp luật về giải quyết TCĐĐ ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết TCĐĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, một số quy định về giải quyết TCĐĐ trong Luật Đất đai 2013 đã bộc lộ hạn chế, thiếu tính đồng bộ, thống nhất với các luật chuyên ngành trong hệ thống pháp luật. Do dó, Luật Đất đai năm 2024 đã có những sửa đổi, bổ sung về giải quyết TCĐĐ. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích những điểm mới về giải quyết TCĐĐ; qua đó chỉ ra những nội dung cần tiếp tục làm rõ để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong công tác giải quyết TCĐĐ trong thời gian tới.

Một số đề xuất, khuyến nghị để hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên

15-4-2024

Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quan trọng của quốc gia và hầu hết là tài nguyên không tái tạo được, cần được quản lý, bảo vệ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng phát triển kinh tế bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. Chính sách thuế tài nguyên được xác định là một công cụ tài chính hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.

Đề án một triệu ha lúa giảm phát thải - Cơ hội và thách thức

16-4-2024

Ngành lúa gạo có vai trò quan trọng trong ổn định xã hội và đóng góp cho phát triển kinh tế Việt Nam, trong đó, ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đóng góp 50% sản lượng lúa gạo và 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, trái ngược với những thành công rực rỡ của ngành lúa gạo thì hiện nay, thu nhập của người nông dân trồng lúa là thấp nhất trong ngành nông nghiệp và ngành lúa gạo đang đóng góp lượng phát thải khí nhà kính (KNK) lớn nhất (khoảng 50% lượng phát thải KNK của ngành nông nghiệp). Nhiều hạn chế từ ngành sản xuất lúa gạo đã và đang giảm sự phát triển bền vững của ngành trong bối cảnh hiện tại.

Cần khắc phục ô nhiễm môi trường ở Việt Nam một cách quyết liệt và hiệu quả hơn

17-4-2024

Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới, chúng ta còn nhiều việc phải làm, đặc biệt là vấn đề phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường.

Chính sách công nghiệp xanh hướng tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam

21-4-2024

Công nghiệp xanh đang trở thành xu hướng phát triển đem lại hiệu quả trong tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường. Trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm phát triển công nghiệp xanh, bảo đảm quá trình thực hiện có thể tối ưu hóa hiệu quả lợi ích từ cấp địa phương đến toàn bộ nền kinh tế, hướng tới sự phát triển bền vững.

Thị trường tín chỉ carbon: Lý luận và giải pháp

21-4-2024

Trong bối cảnh vận hành thị trường carbon dường như là tất yếu, việc cân nhắc đến tiềm năng phát triển thị trường carbon rừng của Việt Nam không chỉ là giải pháp đóng góp vào các mục tiêu giảm phát thải mà còn góp phần đem lại lợi ích kinh tế cho những người dân có sinh kế phụ thuộc vào rừng.

Nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam - Cơ hội và thách thức

22-4-2024

Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra từ năm 2008, lúc đó trên thế giới nhận thấy sự cần thiết phải thúc đẩy kinh tế xanh và chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP) tháng 10/2008 đã đưa ra sáng kiến kinh tế xanh. Năm 2011, UNEP đưa ra định nghĩa về kinh tế xanh như sau: “Nền kinh tế xanh giúp cải thiện đời sống và công bằng xã hội, trong khi giảm đáng kể các rủi ro môi trường và khan hiếm nguồn lực sinh thái. Một nền kinh tế xanh có thể được coi là một nền kinh tế có lượng phát thải carbon thấp, sử dụng tài nguyên hiệu quả và bao trùm xã hội”. Như vậy, một nền kinh tế xanh là một nền kinh tế có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội.

Quản trị nguồn nhân lực xanh: Xu thế tất yếu cho mục tiêu phát triển bền vững

23-4-2024

Quản trị nguồn nhân lực là một trong những công việc quan trọng của quản lý tổ chức. Dưới góc độ bền vững, quản trị nguồn nhân lực xanh là yếu tố quan trọng nhất của sự bền vững. Bài viết này khái quát các hoạt động quản trị nguồn nhân lực xanh của các tổ chức, những hạn chế hoặc rào cản trong quản trị nguồn lực xanh, qua đó đề xuất một số sáng kiến tiềm năng cho các tổ chức xanh.

Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Mã thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050

24-4-2024

Quy hoạch tổng hợp LVS Mã thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, có phạm vi lập quy hoạch bao gồm toàn bộ diện tích LVS Mã nằm trong lãnh thổ Việt Nam thuộc địa giới hành chính các tỉnh: Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa và Nghệ An, được phân chia thành 8 tiểu vùng quy hoạch gồm: thượng sông Mã; trung sông Mã; Nam sông Mã - Bắc sông Chu; Bắc sông Mã; LVS Bưởi; LVS Âm; thượng sông Chu; Nam sông Chu.

Tổng quan hạch toán tích hợp kinh tế - môi trường đối với tài nguyên nước và kiến nghị áp dụng cho Việt Nam

26-4-2024

 Hạch toán tài nguyên nước (TNN) là quá trình tổng hợp, tính toán, cân đối nguồn nước, xác định giá trị TNN trong các hoạt động kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh nguồn nước. Kết quả hạch toán TNN được sử dụng để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc điều hòa, phân phối và thực hiện các giải pháp quản lý khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp phân tích tại bàn, phân tích chính sách nhằm giới thiệu phương pháp, ý nghĩa hạch toán tích hợp kinh tế - môi trường đối với TNN, từ đó kiến nghị áp dụng cho Việt Nam.

Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh tại Việt Nam

2-5-2024

 Nông nghiệp xanh (NNX) hiện được xem là hướng tiếp cận, là phương pháp mới trong lĩnh vực nông nghiệp, nhằm cân nhắc giữa sự phát triển sản xuất nông nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững (PTBV). NNX tập trung vào sử dụng các phương pháp canh tác thông minh, phân bón hữu cơ, giảm sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu, áp dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm, đặc biệt là sử dụng công nghệ số để quản lý. Mục tiêu của NNX là tạo ra năng suất cao và bền vững, giảm tác động tiêu cực đến môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, cải thiện chất lượng đời sống của người nông dân. Sản xuất NNX dựa trên tiền đề tôn trọng tự nhiên, với mục tiêu phối hợp giữa lợi ích về kinh tế - xã hội và sinh thái, đồng thời, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại để tích cực tham gia vào quá trình phát triển, nhân giống. Thúc đẩy sản xuất xanh trong nông nghiệp mở ra cơ hội lớn, vừa góp phần nâng cao năng suất, vừa BVMT, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bài viết chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển NNX của một số quốc gia trên thế giới, từ đó đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển NNX tại Việt Nam trong thời gian tới.

Định giá giá trị của nước ngọt và hệ sinh thái nước ngọt

4-5-2024

Nước là nguồn tài nguyên quý giá và được khai thác nhiều nhất trên thế giới, tuy nhiên, nguồn tài nguyên này luôn bị đánh giá thấp. Hiện nay, trên thế giới đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nước lan rộng và ngày càng trầm trọng. Hàng tỷ người vẫn chưa được tiếp cận với nước sạch và vệ sinh, tình trạng mất an ninh lương thực ngày càng gia tăng, rủi ro về nước đối với nông nghiệp và công nghiệp đang leo thang và nhân loại đang mất đi các loài, hệ sinh thái nước ngọt ở mức báo động. Dân số, nền kinh tế và đô thị hóa ngày càng tăng đang gây thêm áp lực lên nguồn cung cấp nước và hệ sinh thái nước ngọt.