ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Định giá giá trị của nước ngọt và hệ sinh thái nước ngọt

Ngày đăng: 04 | 05 | 2024

Nước là nguồn tài nguyên quý giá và được khai thác nhiều nhất trên thế giới, tuy nhiên, nguồn tài nguyên này luôn bị đánh giá thấp. Hiện nay, trên thế giới đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nước lan rộng và ngày càng trầm trọng. Hàng tỷ người vẫn chưa được tiếp cận với nước sạch và vệ sinh, tình trạng mất an ninh lương thực ngày càng gia tăng, rủi ro về nước đối với nông nghiệp và công nghiệp đang leo thang và nhân loại đang mất đi các loài, hệ sinh thái nước ngọt ở mức báo động. Dân số, nền kinh tế và đô thị hóa ngày càng tăng đang gây thêm áp lực lên nguồn cung cấp nước và hệ sinh thái nước ngọt.

    Theo Báo cáo "Chi phí cao của nước giá rẻ" của WWF công bố năm 2023, tổng giá trị sử dụng từ việc sử dụng nước ngọt trực tiếp và gián tiếp vào năm 2021 ước tính vào khoảng 58 nghìn tỷ USD, tương đương với 60% GDP toàn cầu, trong đó lợi ích kinh tế trực tiếp như nước cho các hộ gia đình, nông nghiệp và công nghiệp lên tới 7,5 nghìn tỷ USD hàng năm. Bên cạnh những lợi ích kinh tế trực tiếp thì lợi ích gián tiếp như lọc nước, lưu trữ các-bon và phòng chống lũ lụt, hạn hán, cao gấp bảy lần với mức 50 nghìn tỷ USD hàng năm. Mặc dù mang lại những lợi ích to lớn, nhưng hệ sinh thái nước ngọt đã bị suy giảm đáng báo động, 1/3 diện tích đất ngập nước trên thế giới biến mất kể từ năm 1970 và quần thể động vật hoang dã nước ngọt giảm 83%. Cuộc khủng hoảng này đã góp phần làm gia tăng tình trạng mất an ninh lương thực và nước cũng như thiệt hại về môi trường, làm trầm trọng thêm các thách thức toàn cầu như mất mát thiên nhiên và biến đổi khí hậu. Báo cáo này nhằm mục đích định lượng các giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp từ nước ngọt trên toàn cầu để làm sáng tỏ các lợi ích thường xuyên bị đánh giá thấp, từ đó cân nhắc những đánh đổi tiềm ẩn và đưa ra quyết định quan trọng xung quanh việc quản lý nước cũng như bảo vệ bền vững hệ sinh thái nước ngọt.

    Các giá trị của nước ngọt và hệ sinh thái nước ngọt

    Giá trị của nước đối với xã hội, nền kinh tế và hệ sinh thái là vô hạn. Nước mang lại lợi ích cho con người thông qua việc tiêu thụ, sử dụng và tồn tại, trong khi hệ sinh thái nước ngọt lành mạnh mang lại lợi ích thiết thực cho con người, thiên nhiên và khí hậu. Báo cáo đã phân loại những lợi ích của nước thành ba loại giá trị chính đó là giá trị sử dụng (trực tiếp và gián tiếp), giá trị phi sử dụng, giá trị lựa chọn.

    Giá trị sử dụng của nước

    Nước mang lại nhiều lợi ích sử dụng trực tiếp khác nhau cho các hộ gia đình, nông nghiệp và công nghiệp với giá trị tối thiểu là 7,5 nghìn tỷ USD hàng năm, chiếm 12% tổng giá trị sử dụng. Con số này tương đương với 7% GDP toàn cầu. Trong đó, nông nghiệp là ngành sử dụng nước lớn nhất, chiếm gần 70% lượng nước được khai thác trên toàn cầu cũng như lượng mưa duy trì hầu hết các loại cây nông nghiệp và đồng cỏ trên thế giới [1]. Vào năm 2021, giá trị ước tính của nước trong nông nghiệp được tưới tiêu là 380 tỷ USD, dựa trên ước tính giá giá mờ (giá hoặc giá trị qui đổi của hàng hóa và dịch vụ khi chúng không được xác định một cách chính xác do thiếu thị trường bình thường để hình thành giá cả, hoặc do có sự biến dạng của giá cả trên thị trường) đối với nước tưới [2] và dữ liệu khai thác nước (từ bề mặt và nước ngầm). Tuy nhiên, con số này đánh giá thấp tổng giá trị nước vì không tính đến nền nông nghiệp nhờ mưa hoặc ngập lụt tự nhiên.

    Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp (từ sản xuất đến khai khoáng) phụ thuộc vào 600 tỷ m3 nước mỗi năm [3] để vận hành các quy trình công nghiệp khác nhau. Nước cũng là đầu vào quan trọng cho hầu hết các hình thức sản xuất năng lượng. Có thể thấy, ngành năng lượng là ngành tiêu thụ nước lớn nhất sau nông nghiệp. Việc sử dụng nước trong công nghiệp tạo ra 5,1 nghìn tỷ USD mỗi năm [4]. Cùng với việc sử dụng tiêu dùng trực tiếp, các lĩnh vực kinh tế khác nhau đã tạo ra giá trị theo những cách chủ yếu là không tiêu dùng, bao gồm sản xuất thủy điện (220 tỷ USD) [5], đánh bắt cá nước ngọt (18 tỷ USD) [6], giải trí và du lịch (Mỹ) 205 tỷ USD) [7],  hoặc vận tải nội địa (19 tỷ USD) [8] đóng góp vào sinh kế, an ninh lương thực và năng lượng, tăng trưởng kinh tế và thương mại quốc tế.

    Ngoài việc củng cố hoạt động nông nghiệp và thúc đẩy năng suất công nghiệp, các thành phố và hộ gia đình còn sử dụng nước để làm nước uống và vệ sinh. Giá thị trường mà các hộ gia đình và các đơn vị khác kết nối với lưới điện thành phố phải trả (~500 tỷ USD) được bổ sung bằng các khoản trợ cấp nước công do Chính phủ đầu tư (~1 nghìn tỷ USD) để xử lý và cung cấp nước vừa là hàng hóa thiết yếu vừa là quyền con người, cũng như vừa là động lực thúc đẩy năng suất và hoạt động kinh tế. Nhưng để tiến tới phổ cập khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh (SDG6), thế giới vẫn chưa đạt được mục tiêu do quản trị kém, đầu tư không đủ và phân bổ nước không công bằng - cũng như bỏ qua giá trị của hệ sinh thái nước ngọt. Việc quản lý nước thải kém của các cơ sở tiện ích cũng có thể gây ô nhiễm các hệ sinh thái này, làm giảm chất lượng nước.

    Mặc dù tạo ra giá trị gấp 7 lần so với các hoạt động sử dụng nước trực tiếp, những lợi ích gián tiếp của hệ sinh thái nước ngọt thường xuyên bị đánh giá thấp và bị bỏ qua. Giá trị kinh tế do các dịch vụ hệ sinh thái này mang lại ước tính khoảng 5 nghìn tỷ USD hàng năm. Mặc dù những lợi ích trực tiếp của nước đối với các hộ gia đình hoặc các ngành công nghiệp liên quan chặt chẽ với GDP, nhưng việc sử dụng nước gián tiếp lại cản trở sự phát triển kinh tế và xã hội. Cụ thể, các lợi ích điều tiết khác nhau của hệ sinh thái nước ngọt, bao gồm lắng đọng chất dinh dưỡng, lọc nước tự nhiên và duy trì độ phì nhiêu của đất, mang lại giá trị to lớn không thể thay thế hoặc cực kỳ tốn kém khi xây dựng và trị giá 27 nghìn tỷ USD hàng năm.

    Thêm vào đó, các vùng đất ngập nước và đặc biệt là đất than bùn có khả năng hấp thụ các-bon ước tính có trị giá 2 nghìn tỷ USD hàng năm. Trên toàn cầu, các vùng đất than bùn nguyên vẹn hấp thụ 0,37 tỷ tấn CO2 tương đương mỗi năm [9], vùng đất than bùn cạn nước, chiếm 15-20% tổng diện tích đất than bùn, đã thải ra hơn 1,9 tỷ tấn CO2 mỗi năm [10].  Bảo vệ các vùng đất than bùn hiện có và khôi phục các vùng đất than bùn bị suy thoái là rất quan trọng để ngăn chặn việc thải ra một lượng lớn CO2 vào khí quyển và hạn chế nhiệt độ toàn cầu suy giảm ở mức 1,5 độ. Ví dụ như vùng đất than bùn ở lưu vực sông Congo lưu trữ lượng các-bon tương đương với toàn bộ rừng nhiệt đới Congo, mặc dù chỉ chiếm 5% diện tích bề mặt của nó và sự suy thoái của chúng sẽ gây ra những tác động thảm khốc.

    Bằng cách góp phần thích ứng với khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai, hệ sinh thái nước ngọt lành mạnh và tài nguyên nước được quản lý tốt sẽ bảo vệ giá trị kinh tế và xã hội to lớn. Hàng năm, giá trị toàn cầu của việc kiểm soát các hiện tượng cực đoan (thích ứng với khí hậu và giảm thiểu rủi ro do lũ lụt cực đoan, hạn hán và các hiện tượng cực đoan khác) thông qua các vùng đất ngập nước trong đất liền ước tính khoảng 12 nghìn tỷ USD. Những dòng sông, hồ và vùng đất ngập nước lành mạnh là sự bảo hiểm tốt nhất cho xã hội trước những tổn thất về nhân mạng, sinh kế và sản lượng kinh tế do các mối đe dọa khí hậu ngày càng tăng. Hạn hán đã ảnh hưởng đến 55 triệu người mỗi năm và gây ra khoảng 650.000 ca tử vong từ năm 1970 đến năm 2019 [11]. Những xu hướng này được dự đoán sẽ gia tăng và ước tính cho thấy rủi ro về nước có thể gây ra thiệt hại tổng cộng 5,6 nghìn tỷ USD cho GDP vào năm 2050 [12]. Hệ sinh thái nước ngọt cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng nguồn gen (9 nghìn tỷ USD) và duy trì chu kỳ sống của các loài di cư (2 nghìn tỷ USD). Ví dụ, lưu vực sông Amazon có hơn 3.000 loài cá nước ngọt - số lượng lớn nhất thế giới - nhiều loài trong số đó là loài di cư và phụ thuộc vào các con sông nối liền và vùng ngập lũ.  Trong khi đó, vùng đất ngập nước Meamvhile Doiĩana là nơi sinh sống của nhiều loài chim và là nơi cư trú của hàng trăm nghìn loài chim di cư mỗi năm và nhiều loài chim nước trú đông hơn bất kỳ nơi nào khác ở Châu Âu.

    Giá trị phi sử dụng: Bên cạnh giá trị sử dụng thì nước và hệ sinh thái nước ngọt còn mang các giá trị về tinh thần, bao gồm các lợi ích về sức khỏe, giá trị di sản, hoặc giá trị tồn tại (tiện ích hoặc phúc lợi bắt nguồn từ hồ, sông, vùng đất ngập nước và tầng ngậm nước trong lành).

    Giá trị lựa chọn: Giá trị của việc bảo tồn hoặc duy trì tiềm năng sử dụng nước trong tương lai, ngay cả khi nước hiện không được sử dụng.

Từ những phân tích nêu trên có thể thấy, trong khi một số giá trị sử dụng của nước có thể được sử dụng hiệu quả và được định giá, thì những giá trị khác không thể định giá. Điều này bao gồm văn hóa và giá trị tinh thần của nước (ý nghĩa biểu tượng trong truyền thống, nghi lễ và tín ngưỡng, đặc biệt đối với người dân bản địa), giá trị phi sử dụng, giá trị lựa chọn và cuối cùng là giá trị tầm quan trọng của nước đối với sự tồn tại của mọi sự sống trên Trái đất.

    Cần có hành động khẩn cấp để bảo vệ hệ sinh thái nước ngọt

    Quản lý nước hiệu quả ở cấp địa phương, khu vực, quốc gia và xuyên biên giới là rất quan trọng để phân bổ nước một cách công bằng và đồng thời duy trì sức khỏe của hệ sinh thái nước ngọt. Vì vậy, để bảo vệ hệ sinh thái nước ngọt, các bên liên quan cần có những hành động khẩn cấp:

    Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách ở cấp địa phương, quốc gia và khu vực, bao gồm cả các cơ quan quản lý lưu vực sông xuyên biên giới, nên khôi phục và bảo vệ các hệ sinh thái nước ngọt quan trọng bằng cách cam kết hồi sinh 30% các con sông và vùng đất ngập nước bị suy thoái trên toàn thế giới vào năm 2030 và bảo tồn các hệ sinh thái nước ngọt nguyên vẹn thông qua Chương trình Thử thách nước ngọt; Xây dựng và đưa các mục tiêu rõ ràng về hệ sinh thái nước ngọt vào quy hoạch, bao gồm các kế hoạch thích ứng và đa dạng sinh học quốc gia, đồng thời đẩy nhanh các hành động hướng tới thực hiện mục tiêu Nước và vệ sinh cho tất cả mọi người (SDG6); Tích hợp các hệ thống quản lý tài nguyên nước và sông để tăng cường sự phối hợp giữa các ngành; Thực hiện phân bổ nước thích ứng với việc thiết kế các hệ thống cung cấp nước linh hoạt, phù hợp với địa phương để đảm bảo sự phân phối công bằng, bền vững giữa các ngành, đồng thời bảo vệ sức khỏe hệ sinh thái. Bên cạnh đó cần quản lý và bảo vệ bền vững tài nguyên nước ngầm, đặt ra giới hạn khai thác bền vững; Đầu tư vào việc lưu trữ nước tự nhiên thông qua các giải pháp dựa vào tự nhiên nhằm giảm tác động của lũ lụt cực đoan, tăng khả năng giữ nước tự nhiên và phục hồi trước hạn hán bằng cách khôi phục các vùng đất ngập nước, vùng ngập lũ và lưu vực sông, bổ sung tầng ngậm nước và tăng cường sức khỏe của đất; đồng thời thúc đẩy các biện pháp khuyến khích thúc đẩy sử dụng nước bền vững, đặc biệt là trong các lĩnh vực sử dụng nhiều nước như nông nghiệp và năng lượng.

    Đối với lĩnh vực công nghiệp và kinh doanh nên phát triển các chiến lược quản lý nước mang tính chuyển đổi; Tăng cường và công bố các đánh giá rủi ro về nước để đánh giá, phát hiện các rủi ro về nước do khan hiếm, ô nhiễm, lũ lụt trong các hoạt động và chuỗi cung ứng bằng cách sử dụng các công cụ như Bộ lọc rủi ro WWF; Đầu tư nâng cao hiệu quả và giảm ô nhiễm trong khi xem xét phân bổ; triển khai các công nghệ tiết kiệm nước và xử lý tiên tiến để giảm thiểu việc tạo ra nước thải và tối đa hóa hiệu quả, đặc biệt là trong chuỗi cung ứng; Hợp tác với các Chính phủ, công ty và cộng đồng để tăng cường khả năng phục hồi lưu vực sông thông qua đầu tư và tham gia vào các hành động tập thể. Các công ty nên sử dụng quyền lực và ảnh hưởng của mình để kêu gọi các Chính phủ tạo nền tảng cho cách tiếp cận mới, bền vững đối với hệ sinh thái nước và nước ngọt - từ phân bổ tốt hơn và định giá hợp lý đến sử dụng nhiều hơn quỹ công để hỗ trợ phục hồi hệ sinh thái nước ngọt.

    Các tổ chức tài chính nên dành 50% tài chính công về khí hậu cho hoạt động thích ứng như đầu tư vào “nền kinh tế phục hồi” và các giải pháp dựa vào thiên nhiên để nâng cao sức khỏe của hệ sinh thái nước ngọt và xây dựng xã hội, nền kinh tế có khả năng chống chịu khí hậu tốt hơn; Tăng cường khả năng phục hồi của hệ sinh thái nước ngọt thông qua việc tránh đầu tư vào cơ sở hạ tầng có hại, thoái vốn khỏi các dự án có tác động lớn, tạo ra các loại tài sản mới xung quanh các giải pháp và thích ứng dựa vào thiên nhiên, cũng như đầu tư vào công nghệ và dữ liệu về nước; Đầu tư vào các giải pháp dựa vào thiên nhiên để thích ứng với khí hậu, đặc biệt là khôi phục các hệ sinh thái nước ngọt bị suy thoái nhằm giảm thiểu rủi ro bảo hiểm; Đánh giá rủi ro tài chính liên quan đến nước đối với danh mục đầu tư của họ bằng cách yêu cầu các công ty khách hàng hiện tại, tiềm năng đánh giá và công bố các rủi ro về nước trong hoạt động và chuỗi cung ứng của họ

    Các tổ chức xã hội dân sự nên nâng cao nhận thức bằng cách nhấn mạnh vai trò trung tâm của hệ sinh thái nước ngọt lành mạnh trong việc tăng cường an ninh nước, lương thực và năng lượng, cải thiện sức khỏe con người, giảm xung đột và thiên tai, đồng thời giải quyết tình trạng mất thiên nhiên và biến đổi khí hậu thông qua các chiến dịch, thu hút sự tham gia của người dân bản địa và cộng đồng địa phương, phụ nữ và thanh niên. Gây áp lực cho các Chính phủ, tập đoàn và tổ chức tài chính giải quyết các thách thức về nước, thực hiện và tuân thủ các quy định về nước hiệu quả, đồng thời đầu tư vào việc bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái nước ngọt cho con người, thiên nhiên và khí hậu.

    Với mỗi cá nhân có thể hành động bằng cách nâng cao nhận thức của mọi người xung quanh về tình trạng khan hiếm nước, lũ lụt và ô nhiễm ngày càng trầm trọng cũng như tầm quan trọng của hệ sinh thái nước ngọt lành mạnh trong gia đình, bạn bè và cộng đồng; Tiêu dùng có trách nhiệm, chọn các sản phẩm tiết kiệm nước và giảm tiêu thụ quá mức các sản phẩm có nguồn gốc động vật và tăng tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc thực vật được sản xuất bền vững; Tham gia vào các nỗ lực làm sạch và phục hồi tại địa phương xung quanh sông, hồ và vùng đất ngập nước; Kiến nghị các chính sách quản lý nước mạnh mẽ hơn, khuyến khích áp dụng các phương pháp tiếp cận dựa trên hệ sinh thái nước ngọt vào quy hoạch thích ứng với khí hậu, ủng hộ đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước tự nhiên và hỗ trợ các hoạt động bền vững.

Phùng Thị Quỳnh Trang

Học viện Phụ nữ

(Bài đăng trên Tạp chí Môi tường số 3/2024)

Tài liệu tham khảo

1. FAO, “AQUASTAT”; World Bank, “Water in Agriculture.”

2. The shadow price of water for irrigation refers to the additional value generated by water in terms of its contribution to agricultural production.

3. FAO, “AQUASTAT.”

4. Based on data on the value of water in production of industrial outputs (i.e., its marginal value) as well as withdrawal data

5. It is important to note that hydropower generation in particular can also be considered a consumptive use, as both the diversion of water flows and evaporation from reservoirs can reduce water availability.

6. Statista, “Global Hydropower Market Size 2021,” 2023, https://www.statista.com/statistics/1277337/global-hydropower-market-size/.

7. FAO, “FAO Fisheries & Aquaculture - Statistical Query Panel,” 2023, https://www.fao.org/fishery/statistics-query/ en/home.

8. Business Wire, “Global Inland Water Freight Transport Market Report 2021,” 2021, https://www.businesswire. com/news/home/20210708005703/en/Global-Inland- Water-Freight-Transport-Market-Report-2021--- ResearchAndMarkets.com.

9. IUCN, “Peatlands and Climate Change,” Issues Brief, 2021, https://www.iucn.org/sites/default/files/2022-04/iucn_issues_brief_peatlands_and_climate_change_final_nov21.pdf.

10. IUCN.

11. UNCCD, “Drought in Numbers 2022.”

12. GHD, “Aquanomics: The Economics of Water Risk and Future Resiliency,” 2022, https://aquanomics.ghd.com/.

   

 

NỘI DUNG KHÁC

Thiết lập hiệp ước toàn cầu để bảo tồn các đại dương trên thế giới

4-5-2024

 Đại dương toàn cầu - các vùng biển trên Trái đất, bao gồm Bắc Cực, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và các đại dương phía Nam - cung cấp hơn một nửa lượng oxy mà chúng ta hít thở, đồng thời cung cấp lương thực và sinh kế cho hàng tỷ người trên toàn thế giới. Đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài hoang dã kỳ diệu, từ sinh vật phù du nhỏ bé đến sinh vật lớn nhất từng tồn tại - cá voi xanh. Sự đa dạng đặc biệt của cuộc sống ở đại dương và những dịch vụ mà chúng cung cấp cho con người đã mang lại những giá trị to lớn. 

Thúc đẩy chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước tại Việt Nam

6-5-2024

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (DVHST) tự nhiên tại Việt Nam đã được thể chế hóa tại Điều 138 Luật BVMT năm 2020. Theo đó “tổ chức, cá nhân sử dụng DVHST tự nhiên trả tiền cho tổ chức, cá nhân cung ứng giá trị môi trường, cảnh quan do hệ sinh thái (HST) tự nhiên tạo ra để bảo vệ, duy trì và phát triển HST tự nhiên”.

Phát triển đô thị bền vững dựa trên mô hình kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

7-5-2024

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) trong phát triển đô thị bền vững đã và đang được coi như một giải pháp hữu hiệu tại nhiều đô thị trên thế giới khi phải đối mặt với những áp lực ngày càng lớn về phát triển kinh tế, cân bằng xã hội, bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp tổng hợp tài liệu, phân tích kinh nghiệm ứng dụng KTTH thành công của một số đô thị như Thâm Quyến (Trung Quốc) và Tokyo (Nhật Bản), cũng như đánh giá thực trạng, điều kiện thực tiễn tại các đô thị trong nước, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm cải thiện, nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng mô hình KTTH trong phát triển các đô thị tại Việt Nam theo hướng bền vững.

Tổng quan một số nghiên cứu về chất thải nhựa biển ở Việt Nam và đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai

8-5-2024

Chất thải nhựa trên biển là một trong số chất ô nhiễm nguy hiểm, gây thiệt hại lớn tới môi trường, hệ sinh thái và các ngành kinh tế biển. Chính vì vậy, Việt Nam đã và đang thực hiện một số nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, các nghiên cứu đang chỉ ở những giai đoạn đầu tiên, mang tính đơn lẻ, thiếu tính định hướng và hệ thống. Dựa trên việc thu thập tài liệu, dữ liệu; thống kê, phân tích và xử lý số liệu; tổng hợp kết quả phân tích liên quan đến chất thải nhựa trên biển ở Việt Nam, nghiên cứu đã đưa ra cái nhìn khái quát một số nghiên cứu về chất thải nhựa biển ở Việt Nam, bao gồm:về định hướng (tác giả xem việc sử dụng từ định hướng có phù hợp không) nghiên cứu chất thải nhựa trên biển với các nội dung bao gồm: Mật độ phân bố, nguồn gốc chất nhựa, tác động của chất thải nhựa đến hệ sinh thái, và con người... trên kích cỡ loại nhựa là nhựa cỡ lớn và vi nhựa tại khu vực bờ biển, trầm tích, và cột nước biển. Từ đó, đề xuất các hướng nghiên cứu chất thải nhựa tại Việt Nam trong những năm tiếp theo như: Nghiên cứu về ảnh hưởng của chất thải nhựa; nghiên cứu về quan trắc, giám sát chất thải nhựa; nghiên cứu về phát triển công nghệ về chất thải nhựa...

Phát triển giao thông phi động cơ nhằm góp phần giảm ô nhiễm môi trường tại các đô thị lớn ở Việt Nam

13-5-2024

Giảm phát thải khí nhà kính (KNK) từ các phương tiện cơ giới đường bộ đang là ưu tiên của nhiều Chính phủ và đô thị lớn trên thế giới. Trên thế giới đã có nhiều các giải pháp được đưa ra, trong đó hiệu quả nhất là giải pháp phát triển loại hình giao thông phi động cơ tại các thành phố (TP) lớn, điển hình là sử dụng xe đạp nhằm kết nối với các phương tiện công cộng khác trong đô thị. Tuy nhiên, để phát triển được loại hình này, Nhà nước cần ban hành chính sách, cơ chế… cũng như sự nâng cao nhận thức của người dân. Nghiên cứu phân tích thực trạng, kinh nghiệm giao thông phi động cơ trên thế giới và một số địa điểm dành cho xe đạp ở một số TP của Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp giao thông phi động cơ cho Việt Nam.

Nghiên cứu phương pháp đánh giá rủi ro khan hiếm nước

13-5-2024

Đánh giá rủi ro khan hiếm nước cần dựa trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường khác nhau. Bài báo đã đưa ra một số phương pháp đánh giá rủi ro khan hiếm nước phổ biến được áp dụng trong các nghiên cứu trên thế giới, bao gồm theo khung đánh giá rủi ro của IPCC (rủi ro khan hiếm nước quốc gia) và dựa trên nước ảo (rủi ro khan hiếm nước khu vực). Rủi ro khan hiếm nước dựa trên khung đánh giá rủi ro của IPCC được cấu tạo từ ba thành phần chính: hiểm họa, mức độ phơi bày và tính dễ bị tổn thương. Rủi ro khan hiếm nước dựa trên nước ảo là khả năng tổn thất sản lượng kinh tế trong một ngành do khan hiếm nước bao gồm tổn thất sản lượng trực tiếp và tổn thất sản lượng gián tiếp thông qua thương mại. Bài viết góp phần làm rõ nội hàm và tác động của khan hiếm nước, đồng thời cung cấp thêm công cụ hỗ trợ tăng cường hiệu quả của các chiến lược quản lý tài nguyên nước, hướng tới phát triển bền vững.

Nghiên cứu cơ sở khoa học ứng dụng địa chất môi trường đô thị ở Việt Nam

14-5-2024

 Địa chất môi trường (ĐCMT) đô thị ứng dụng ba vấn đề chính: i) Các thành phần của môi trường địa chất (thành phần vật chất, các quá trình địa chất, địa hình địa mạo); ii) Hệ thống của đô thị (vị trí, yếu tố đầu vào, đầu ra, hệ thống giao thông); iii) Mối tương tác của môi trường địa chất với hoạt động đô thị. Trên cơ sở này, ĐCMT đô thị phục vụ công tác xác định tính tương thích giữa các thành phần tham gia trong quá trình phát triển đô thị, hạn chế tối thiểu những xung đột, đưa ra cơ sở khoa học sử dụng hợp lý không gian địa chất. Trong bài viết, với mục tiêu đưa ra cơ sở khoa học các dữ liệu gốc về tính chất vật lý, hóa học, không gian của các thành phần trong không gian địa chất phục vụ thu thập, điều tra và phân cấp theo nhu cầu để xác lập giá trị (điểm số) cũng như chuẩn hóa trọng số theo ba vấn đề nêu trên. Từ đó lượng hóa nhằm đánh giá khả năng đáp ứng được các nhu cầu phát triển đô thị một cách khách quan và hợp lý theo từng khu vực nhất định ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

Tác động của du lịch đến phát triển kinh tế và phát thải các-bon ở Việt Nam

14-5-2024

Hiện nay, xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu đã gây ra những tác động tiêu cực tới chất lượng môi trường. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu phân tích và làm rõ tác động của du lịch đến phát triển kinh tế, phát thải CO2 và chất lượng môi trường ở Việt Nam. Nghiên cứu đã áp dụng các phương pháp thu thập tài liệu và phân tích, đánh giá tài liệu để tiến hành phân tích tổng quan mối liên hệ, tác động qua lại giữa du lịch và phát triển kinh tế; du lịch và bền vững về môi trường; du lịch và phát thải các-bon, đồng thời đánh giá về phát thải các-bon trong phát triển du lịch ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng đưa ra hàm ý giảm thiểu tác động từ các bên liên quan trong phát triển du lịch; gợi ý chính sách hướng tới một nền du lịch thân thiện với môi trường, ứng dụng công nghệ, đổi mới sinh thái, từ đó góp phần giảm tác động tiêu cực từ hoạt động du lịch lên môi trường, nhằm đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế.

Giải pháp kiểm soát tác động của ô nhiễm môi trường biển ở Việt Nam đối với phát triển kinh tế - xã hội

21-5-2024

    Trong khuôn khổ đề tài “Biển Việt Nam phục vụ mục tiêu bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước”, bài viết tập trung nêu lên thực trạng môi trường biển Việt Nam. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả phân tích những tác động của ô nhiễm môi trường biển đến kinh tế - xã hội ở các khía cạnh: tác động đến các ngành, lĩnh vực kinh tế biển (hàng hải, thủy sản và sản xuất nông nghiệp ven biển, du lịch biển, khai thác năng lượng biển, thu hút đầu tư tại các cơ sở công nghiệp ven biển); tác động đến các vấn đề xã hội vùng biển đảo (sức khỏe con người, sinh kế của cộng đồng dân cư, mâu thuẫn lợi ích và an ninh, trật tự vùng biển đảo). Để giảm thiểu những tác động của ô nhiễm đối với kinh tế - xã hội, bài viết đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường biển như nhóm giải pháp về chính sách, pháp luật; nhóm giải pháp về tổ chức triển khai công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường; nhóm giải pháp về đầu tư nguồn lực.

Chuyển đổi xanh trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

21-5-2024

    Chuyển đổi xanh là một phương thức phát triển kinh tế quan tâm đến vấn đề môi trường và tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt. Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm các nước đã thành công về kinh tế xanh, đồng thời kết hợp linh hoạt các bài học này trong xây dựng chính sách phát triển cơ cấu ngành, nghề và điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình chính trị, xã hội, vị trí địa lý và nền văn hóa của đất nước. Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và suy thoái môi trường đã trở thành những thách thức nghiêm trọng đối với sự phát triển bền vững của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Thời gian qua, Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về ô nhiễm môi trường. Bên cạnh thiên tai, biến đổi khí hậu thì tình hình dịch bệnh (cúm gia cầm, Covid-19…) đã tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, chỉ có chuyển đổi xanh, tăng trưởng xanh mới là lựa chọn đúng đắn và lâu dài. 

Phát triển năng lượng tái tạo: Thành công của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam

21-5-2024

Trong bối cảnh cả thế giới phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt năng lượng trầm trọng, ô nhiễm môi trường do khai thác nguồn nhiên liệu hóa thạch quá mức, năng lượng tái tạo nổi lên như một biện pháp bền vững, đem lại tương lai mới cho con người và môi trường trên Trái đất.

Vai trò của Trung Quốc trong việc thúc đẩy chuyển dịch năng lượng toàn cầu

21-5-2024

Trung Quốc nổi lên là quốc gia đi đầu trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và đang “thống trị” nhiều thị trường sản xuất vật liệu phục vụ chuyển dịch năng lượng trên thế giới. Do đó, Trung Quốc sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển dịch sang năng lượng sạch của thế giới, hướng tới hiện thực hoá mục tiêu phát thải ròng bằng “0” toàn cầu.