ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Tiếp cận hệ sinh thái công nghiệp trong hoạch định chính sách phát triển công nghiệp bền vững ở Việt Nam

Ngày đăng: 29 | 08 | 2024

Hệ sinh thái công nghiệp (Industrial Ecology - IE) là một phương pháp tiếp cận mới, sự lựa chọn mang tính toàn diện cho phát triển công nghiệp bền vững. Tiếp cận IE trong các lĩnh vực công nghiệp là tìm kiếm cách thức tối ưu hóa toàn bộ chu trình từ nguyên vật liệu thô đến hoàn thiện sản phẩm, xử lý phế thải cuối cùng. Cách tiếp cận này tạo nền tảng để hoạch định chính sách phát triển công nghiệp bền vững, đặc biệt áp dụng cho bối cảnh quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

 

Sản xuất công nghiệp tại Nhà máy lốp xe tải của Công ty cổ phần Cao su Đà Nẵng (Nguồn: tuoitre.vn)

Khái quát về cách tiếp cận hệ sinh thái công nghiệp

Thời gian qua, mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam tập trung phần lớn vào các hoạt động sản xuất công nghiệp qua khai thác tài nguyên thiên nhiên dẫn đến nhiều bất cập trong phát triển bền vững. Ở các nước trên thế giới, cũng dễ dàng nhận thấy, hệ lụy phát triển công nghiệp thiếu bền vững là xuất hiện các bãi xử lý chất thải ngày càng tăng, bầu khí quyển đang bị thay đổi do hậu quả khí thải, hiệu ứng nhà kính, đe dọa đến sức khỏe và sự sinh tồn của con người. Thực tế cho thấy, chính sách phát triển công nghiệp theo cách tiếp cận ngành truyền thống đã mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội nhất định, tuy nhiên, ngày nay, cách thức này không còn là lựa chọn phù hợp để phát triển bền vững. Vào năm 2002, Robert và cộng sự trình bày một mô hình hệ thống tổng thể chiến lược phát triển bền vững - Strategic sustainable development (SSD), qua cách tiếp cận mới hệ IE(1). Tiếp cận IE trong hoạch định chính sách phát triển công nghiệp được xem là một trong những yếu tố nền tảng cho quản lý môi trường và thúc đẩy phát triển công nghiệp bền vững.

Sinh thái học sinh học truyền thống là khoa học về các mối tương tác, xác định sự phân bố và tính phong phú của sinh vật. Trong hệ sinh thái sinh học, một số sinh vật sử dụng ánh sáng mặt trời, nước và khoáng chất để phát triển, trong khi những thứ khác tồn tại hoặc chết cùng với các khoáng chất, khí và chất thải của chính chúng. Những chất thải của sinh vật này lại là thức ăn cho các sinh vật khác, trong số đó, một số sinh vật có thể chuyển đổi chất thải thành khoáng chất và chúng tiêu thụ lẫn nhau trong một mạng lưới các quá trình phức tạp, mọi thứ tạo ra đều được sử dụng bởi một số chất chuyển hóa của chính các sinh vật. Tương tự, IE bao gồm dòng chảy nguyên vật liệu, tính đa dạng, phụ thuộc lẫn nhau, mang tính cộng đồng và địa phương rộng lớn, sự kết nối, sự hợp tác(2). Trong các IE, mỗi quá trình và mạng lưới các quá trình phải được xem như một phần phụ thuộc và có liên quan lẫn nhau của một tổng thể lớn hơn.

Tiếp cận IE là nghiên cứu toàn diện hệ thống, không chỉ là các thành phần, hệ thống riêng lẻ mà bao gồm tất cả các tác nhân của hệ thống, chẳng hạn như các công ty và tổ chức, các dòng vật chất, năng lượng, các dòng thông tin liên kết các tác nhân này với tác nhân khác và với các hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái xung quanh. Trên cơ sở đó mới có thể nhận thức được toàn diện, đầy đủ và rõ ràng các căn cứ để hoạch định chính sách phát triển công nghiệp. Phân biệt ranh giới của các IE cũng là yếu tố rất quan trọng, cần xem xét, chẳng hạn, IE theo cấp độ địa phương so với khu vực, với quốc gia, với toàn cầu. Cũng cần quan tâm nghiên cứu các khía cạnh khác của IE, như các khía cạnh sinh thái, xã hội, văn hóa hoặc kinh tế và các dòng chảy trong IE, như dòng chảy vật chất, năng lượng hoặc thông tin. Tiếp cận IE giúp tài nguyên được sử dụng hợp lý, chất thải và lượng khí thải được xử lý, tái chế hết. Việc tái chế và phân tầng cũng như sử dụng thành công các nguồn tài nguyên tái tạo sẽ góp phần giảm đầu vào của các nguồn tài nguyên khan hiếm và giảm đầu ra của chất thải và khí thải độc hại đổ vào thiên nhiên, tạo ra IE bền vững. Tầm nhìn lý tưởng cho một IE là hệ thống tái chế mọi thứ(3)

Hệ sinh thái công nghiệp bao gồm đa dạng các đặc tính, các thành phần phụ thuộc lẫn nhau tạo thành một hệ thống. Hệ thống có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với các hệ thống xung quanh và với sự phụ thuộc lẫn nhau của các bộ phận trong chúng. Sự đa dạng của các IE thể hiện qua số lượng các tác nhân khác nhau tham gia vào một IE, tạo ra khả năng tăng cường kết nối và hợp tác trong các hệ sinh thái khác nhau và trong IE. Sự đa dạng IE chỉ ra yêu cầu của cách tiếp cận mạng lưới để bảo đảm phân tích và hoạch định chính sách toàn diện.

Nghiên cứu IE được nhiều người quan tâm và thực tiễn đã minh chứng cách tiếp cận IE thành công cho phát triển bền vững công nghiệp ở các nước.

Những khuyến nghị hoạch định chính sách phát triển công nghiệp bền vững ở Việt Nam theo cách tiếp cận IE

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 17-11-2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết xác định quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Về các nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết yêu cầu: Thí điểm, nhân rộng và phát triển các mô hình phát triển công nghiệp sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tái sử dụng, tái chế chất thải phù hợp với từng ngành, vùng, miền… Xây dựng khung tiêu chí và hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển các khu công nghiệp sinh thái, thông minh, khu đô thị công nghiệp - thương mại - dịch vụ. Trong bối cảnh đó, cách tiếp cận IE cho phát triển công nghiệp là một giải pháp quan trọng.

Sản xuất bộ phận phụ trợ cho xe có động cơ tại Công ty Ohashi Tekko Việt Nam, Khu công nghiệp Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (Ảnh: TTXVN)

Có thể khuyến nghị cách tiếp cận IE cho phát triển công nghiệp bền vững ở Việt Nam với những nội dung sau đây:

Thứ nhất, tiếp cận IE xác định con đường phát triển bền vững, có thể mang lại những thành công nhất định về bảo vệ môi trường, phát triển công nghiệp bền vững. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, tất cả các IE đều khác nhau về kinh tế, xã hội, đặc điểm văn hóa và sinh thái, điều này có thể làm cho nhà hoạch định chính sách gặp khó khăn trong việc so sánh và lựa chọn chính sách(4).

Thứ hai, đối với phát triển công nghiệp Việt Nam, để đạt được mục tiêu đến năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại, cần xác định và nâng cấp (cấu trúc lại) các ngành công nghiệp chủ lực. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, cấp thiết trong môi trường kinh doanh với áp lực cạnh tranh gay gắt quy mô toàn cầu như hiện nay. Cần tập trung xem xét vòng đời của sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghiệp nào có lợi thế cạnh tranh quốc tế, hoạch định chính sách thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động mở rộng công nghiệp đó vươn ra quốc tế, hình thành hệ IE quốc tế. Qua đó, IE bảo đảm phát triển bền vững và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thứ ba, trong hoạch định chính sách công nghiệp, cần xem xét hệ thống công nghiệp như là một bộ phận của tự nhiên. Hệ IE chỉ ra rằng các hoạt động công nghiệp không nên được xem xét trong cô lập với thế giới tự nhiên mà là một bộ phận của hệ thống tự nhiên. Vì vậy, trong thực tế hoạch định chính sách phát triển công nghiệp, nên xem xét hệ thống công nghiệp hoạt động trong môi trường hệ thống sinh thái tự nhiên hoặc sinh quyển. Từ đây, những khía cạnh của hệ thống công nghiệp, được xem tương tự như hệ sinh thái tự nhiên, về cơ bản, bao gồm các dòng vật liệu, năng lượng và thông tin, dựa vào tài nguyên và dịch vụ do sinh quyển cung cấp, qua đó, xây dựng chính sách tiếp cận chi tiết, toàn diện. Điều quan trọng là nhà hoạch định chính sách phải nhấn mạnh rằng từ “công nghiệp” trong ngữ cảnh của “hệ sinh thái công nghiệp” đề cập đến tất cả các hoạt động, tương tác của các chủ thể trong cả hệ sinh thái.

Thứ tư, hoạch định chính sách công nghiệp dựa trên khoa học hệ thống và tư duy hệ thống. IE là một nhánh của khoa học hệ thống và tư duy hệ thống, là một tập hợp các yếu tố liên quan với nhau theo một cách có cấu trúc. Các yếu tố của IE được nhìn nhận như một tổng thể với chức năng và vai trò khác nhau. Các yếu tố tương tác trong các ranh giới xác định. Hành vi của một hệ thống không thể được dự đoán bằng cách phân tích các yếu tố riêng lẻ của nó. Các thuộc tính của một hệ thống xuất hiện từ sự tương tác của các yếu tố của nó và khác biệt với tính chất của chúng như những mảnh riêng biệt. Hành vi của hệ thống là kết quả của sự tương tác của các yếu tố và giữa hệ thống và môi trường của nó. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách phát triển công nghiệp phải nắm rõ cách thức áp dụng tư duy hệ thống, bao gồm nhận thức toàn diện, tư duy ra quyết định sáng tạo (SMART), hệ thống công nghệ và mô hình hệ thống khả thi. Trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng, chính sách cần được linh hoạt, dễ dàng cập nhật, cải tiến liên tục.

Mục tiêu chính của tiếp cận IE là tổ chức lại hệ thống công nghiệp nhằm phát triển công nghiệp theo phương thức tương thích với sinh quyển và bền vững. Chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp theo cách tiếp cận IE được xem là khoa học về tính bền vững, về cách đo lường và khuyến nghị cách thức quản lý tài nguyên và công nghiệp. Tiếp cận hệ IE trong hoạch định chính sách phát triển công nghiệp còn được xem là công cụ cấu trúc lại với bốn khía cạnh chính: 1- Tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực; 2- Vòng lặp vật liệu giúp giảm thiểu khí thải, chất thải; 3- Phi vật chất hóa các hoạt động; 4- Giảm và loại bỏ sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng không thể tái tạo.

Trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa, phương pháp tiếp cận IE quốc gia trở thành hệ IE toàn cầu, Việt Nam cần cân nhắc lựa chọn cách tiếp cận mới trong hoạch định chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp bền vững, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

TS. Nguyễn Văn Vẹn

Vụ địa phương II, Văn phòng Trung ương Đảng

(Theo tapchicongsan.org.vn)

Tài liệu tham khảo

(1) Robert K-H, Schmidt-Bleek B, Aloise de Larderel J, Basik G, Janson JL, Kuehr R, Price Thomas P, Susiki M, Hawken P, Wackernagel M. Strategic sustainable development - selection, design and synergies of applied tools. Journal of Cleaner Production 2002;10:197-214
(2) Korhonen J. Co-production of heat and power: an anchor tenant of a regional industrial ecosystem. Journal of Cleaner Production 2001;9(6):509-17;
(3) Ayres RU, Ayres L. Industrial ecology - towards closing the materials cycle. Cheltenham, UK: Edward Elgar; 1996, p. 278-280;
(4) Korhonen J, Niemela inen H, Pulliainen K. Regional industrial recycling network in energy supply the case of Joensuu city, Finland. Corporate Social Responsibility and Environmental Management 2002;9(3):170-85;

NỘI DUNG KHÁC

Một số vấn đề về phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, tiềm năng và hàm ý giải pháp

29-8-2024

Hiện nay, quy mô thị trường cho các sản phẩm dịch vụ xanh, năng lượng mới ngày càng được mở rộng, là điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ các ngành năng lượng tái tạo. Do đó, thời gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh khai thác hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh trong phát triển năng lượng tái tạo nhằm hiện thực hóa mục tiêu giảm mức phát thải ròng bằng 0 (Net-zero) vào năm 2050, góp phần phát triển nhanh, bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của nền kinh tế.

Phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam

29-8-2024

Việc bán tín chỉ carbon không những góp phần giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, mà còn đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương.

Kiểm kê khí nhà kính từ truy xuất nguồn gốc

29-8-2024

Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu trong một khoảng thời gian dài do tác động của các điều kiện tự nhiên và hoạt động của con người. Nguyên nhân biến đổi khí hậu là khi khí nhà kính bao phủ Trái Đất, chúng sẽ giữ lại nhiệt của mặt trời. Hiện tượng này dẫn đến tình trạng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu.

Quản lý đất ô nhiễm do các loại kim loại nặng gây ra

29-8-2024

Ô nhiễm đất chính là do sự xuất hiện của hóa chất Xenobiotic trong đất. Hóa chất này chủ yếu đến từ các hoạt động nông nghiệp, hóa chất trong nông nghiệp, xả rác không đúng nơi quy định... Làm cho môi trường đất bị ô nhiễm ngày một nghiêm trọng.

Quy hoạch đô thị nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay

29-8-2024

Biến đổi khí hậu đang là vấn đề toàn cầu, gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội, đặc biệt là ở các thành phố lớn, nơi có mật độ dân số cao, nhiều nhà cao tầng và lượng cây xanh ít. Do vậy, cần có giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quy hoạch đô thị để ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay.

Chính sách, pháp luật và một số giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

29-8-2024

Phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) là xu thế tất yếu mà các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đang hướng tới và thực hiện. Đây được xác định là một trong những giải pháp chính để thực hiện định hướng chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý bền vững, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường đã được đề cập trong các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước từ những năm cuối thế kỷ XX.

Xây dựng bộ tiêu chí, chỉ số đánh giá phát triển bền vững hoạt động khoáng sản: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

30-8-2024

Trong phạm vi bài viết, tác giả nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng bộ tiêu chí, chỉ số đánh giá PTBV hoạt động khoáng sản ở một số quốc gia trên thế giới, qua đó rút ra bài học đối với Việt Nam.

Tình hình thực hiện chỉ số hoạt động môi trường (EPI) của Việt Nam năm 2024

4-9-2024

Chỉ số Hoạt động môi trường (EPI - Environmental Performance Index) do Đại học Yale (Mỹ) xây dựng từ năm 2006 và công bố định kỳ 2 năm một lần. Chỉ số EPI tập hợp các chỉ số trong các lĩnh vực khác nhau nhằm đánh giá nỗ lực của các quốc gia trong việc thực hiện các mục tiêu môi trường. Theo kết quả báo cáo EPI mới nhất vừa công bố vào tháng 6/2024, điểm số của Việt Nam tiếp tục giảm. Bài viết tập trung cập nhật phương pháp tính của bộ chỉ số và kết quả thực hiện chỉ số EPI của Việt Nam năm 2024.

Xử lý vướng mắc khi áp dụng phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất (K) theo Nghị định số 12/2024/NĐ-CP về định giá đất ở tại tỉnh Hưng Yên

6-9-2024

Để giải quyết những khó khăn vướng mắc của các địa phương về định giá đất, Bộ TN&MT  đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2024/NĐ-CP ngày 05/02/2024 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất và Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Nghị định đã tháo gỡ nhiều vướng mắc cho các địa phương.

Vận dụng cách tiếp cận dự báo dài hạn (foresight) trong định hướng chính sách bảo vệ môi trường các làng nghề

9-9-2024

 Làng nghề là hình thức đặc thù của nông thôn Việt Nam. Cùng với phát triển kinh tế của đất nước, các làng nghề cũng phát triển, tuy nhiên, quy mô mở rộng dẫn đến phát sinh chất thải làm gia tăng ô nhiễm môi trường. Thời gian qua, việc quản lý và xử lý chất thải tại các làng nghề vẫn còn nhiều bất cập. Do vậy, để hỗ trợ giải quyết vấn đề này, cách tiếp cận dự báo dài hạn (foresight) được xem như là phương thức trao đổi và thỏa thuận giữa các thành phần khác nhau trong xã hội, từ đó phát hiện ra nhiều giá trị có thể đóng góp cho xã hội, đồng thời tích hợp được trong quá trình dự báo các vấn đề cần thảo luận, đề xuất chính sách thành một quá trình tổng hợp, liên ngành. Cách tiếp cận dự báo dài hạn này có thể hỗ trợ công tác dự báo trong xây dựng chiến lược môi trường nói chung cũng như xây dựng chiến lược, chính sách BVMT làng nghề nói riêng. Theo đó, các vấn đề về giải quyết ô nhiễm môi trường của các làng nghề cần được tích hợp ngay trong quá trình thảo luận, đánh giá, phân tích, đề xuất chiến lược, chính sách phù hợp.

Tác động của ô nhiễm ánh sáng đối với môi trường

12-9-2024

Trong những thế kỷ gần đây, việc sử dụng ánh sáng nhân tạo vào ban đêm đã được con người mở rộng, tăng cường với những tiến bộ của công nghệ LED. Công nghệ đã cho phép con người đẩy lùi biên giới của bóng tối, kéo dài thời gian làm việc, giải trí của con người mà quên rằng hệ sinh thái và các loài hoang dã đã tiến hóa để đối phó, phụ thuộc, tận dụng bóng tối tự nhiên.

Thương mại điện tử và tác động của thương mại điện tử tới môi trường Việt Nam

12-9-2024

 Thương mại điện tử (TMĐT) là một trong các lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số, nơi các công nghệ tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) được ứng dụng rộng rãi để tăng hiệu quả của chu trình kinh doanh, góp phần hiện đại hóa hệ thống phân phối, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, TMĐT cũng đã gây ra những tác động tiêu cực tới môi trường.