TIN TỨC-SỰ KIỆN

Bức tranh kinh tế mới được biến đổi khí hậu vẽ ra ở lưu vực sông Mêkông

Ngày đăng: 27 | 08 | 2024

Giờ đây những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (BĐKH) đã rõ rệt hơn sau mỗi năm, thậm chí có thể là sau một vài tháng. Trước bối cảnh đó, người ta tự hỏi các hoạt động kinh tế sẽ thay đổi như thế nào?

Những ngành nghề nào mất đi, những ngành nghề nào sinh ra, những ngành nghề nào chuyển đổi và thậm chí, các hoạt động sản xuất kinh doanh tại nơi này có thể sẽ vận hành theo một cách khác biệt so với trước đây? Để hiểu được bản chất của sự thay đổi này, ta hãy nhìn những nét vẽ của BĐKH vào bức tranh kinh tế qua những tác động cụ thể của hiện tượng này.

Người nông dân trồng lúa đang đối mặt với sự xâm nhập mặn len lỏi vào từng thửa ruộng. Ảnh: H.P

Biến đổi khí hậu ủng hộ một số ngành trong khi lại muốn “khai tử” một số ngành khác

Dòng sông Mêkông từ lâu đã nuôi dưỡng những cánh đồng lúa bạt ngàn và mang lại cuộc sống ấm no cho hàng triệu người. Nhưng giờ đây, lưu vực dòng sông ấy đang trở thành “chứng nhân” bất đắc dĩ cho những tác động của BĐKH đến cấu trúc các ngành nghề. Những ngành nghề truyền thống từng thịnh vượng đang phải đối mặt với sự biến mất, trong khi những ngành mới nổi lên như những ngọn đèn sáng giữa bão tố.

Trên những cánh đồng lúa mênh mông, nơi từng bừng bừng sức sống, giờ đây là những dấu hiệu rõ ràng của sự thay đổi khắc nghiệt. Người nông dân trồng lúa đang đối mặt với sự xâm nhập mặn len lỏi vào từng thửa ruộng. Sự khan hiếm nước ngọt khiến ngành trồng lúa truyền thống, vốn là linh hồn của đồng bằng, giờ đang chao đảo trước nguy cơ bị xóa sổ.

Trong khi đó, những người nông dân khác lại tìm ra con đường mới, thích nghi với điều kiện khắc nghiệt mà thiên nhiên áp đặt. Họ kết hợp nuôi tôm với trồng lúa, tạo ra những mô hình canh tác mới, bền vững hơn, chống chọi với sự thay đổi của môi trường. Những con tôm lớn nhanh trong nước lợ, những giống lúa chịu mặn vươn lên giữa những cánh đồng, mang lại hy vọng mới cho những người từng nghĩ rằng tất cả đã mất.

Trên quy mô toàn cầu, hành trình thích ứng với BĐKH không chỉ là cuộc chiến bảo vệ hành tinh, mà còn là chặng đường định hình lại nền kinh tế của nhân loại. Và câu chuyện BĐKH ở lưu vực sông Mêkông cũng cần được đặt trong câu chuyện BĐKH của toàn cầu.

Dọc theo dòng sông, những khu rừng ngập mặn, từng bị lãng quên, giờ lại trở thành nơi trú ngụ của sự sống mới. Du khách từ khắp nơi đổ về, tìm kiếm sự bình yên giữa thiên nhiên hoang sơ. Những làng du lịch sinh thái mọc lên, người dân địa phương giờ không chỉ sống nhờ đồng lúa, mà còn nhờ vào những dòng tiền kiếm được từ du lịch. Ngành du lịch luôn phải học cách kể câu chuyện của mình một cách có ý nghĩa và độc đáo nhất, về dòng sông, về cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên và biến điều đó thành sức mạnh kinh tế.

Nhưng không phải mọi thứ đều thuận lợi. Những đập thủy điện lớn, từng được xây dựng với niềm tin sẽ mang lại năng lượng và sự thịnh vượng, giờ đây trở thành những rào cản thầm lặng. Dòng chảy bị chặn lại khiến phù sa không còn về với đồng bằng, nguồn cá dần cạn kiệt. Những người sống dựa vào sông nước phải đối mặt với thách thức khi nguồn sống mà họ phụ thuộc đang dần biến mất.

Cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, những công trình xây dựng mọc lên khắp nơi với hình ảnh những chiếc máy khai thác cát giữa lòng sông. Hậu quả là bờ sông bị xói mòn, dòng chảy thay đổi và những ngôi làng ven sông bắt đầu biến mất.

Tương tự câu chuyện về BĐKH ở quy mô toàn cầu, những ngành công nghiệp từng hùng mạnh giờ đây cũng chao đảo trước sự thay đổi do BĐKH, trong khi những ngành mới nổi lên, bền bỉ và kiên cường, như những hạt mầm được gieo trong cơn giông tố. Ngành năng lượng tái tạo đang được xem là giải pháp hiệu quả cho việc giảm phát thải kéo theo những cánh đồng năng lượng mặt trời trải dài dưới ánh nắng, nơi những cánh quạt gió khổng lồ quay đều trên những đỉnh đồi.

Trong các phòng thí nghiệm và nhà máy, công nghệ xanh đang trỗi dậy, như những dòng chảy mới đang thay đổi cục diện.

Trên quy mô toàn cầu, hành trình thích ứng với BĐKH không chỉ là cuộc chiến bảo vệ hành tinh, mà còn là chặng đường định hình lại nền kinh tế của nhân loại. Và câu chuyện BĐKH ở lưu vực sông Mêkông cũng cần được đặt trong câu chuyện BĐKH của toàn cầu.

Biến đổi khí hậu tác động đến các mắt xích trong chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng toàn cầu

Nếu nhìn tác động của BĐKH theo chuỗi giá trị thì sẽ không thể đóng khung nó trong phạm vi của lưu vực sông Mêkông, vì quá trình toàn cầu hóa thường không cho phép một chuỗi giá trị gói gọn trong một phạm vi hẹp. Tuy nhiên, với những thế mạnh sẵn có của mình, lưu vực sông Mêkông có thể nắm giữ những mắt xích quan trọng trong chuỗi, và cũng có thể sẽ bị ảnh hưởng bởi những mắt xích ở những khu vực khác trên thế giới.

Nếu nhìn về thượng nguồn của chuỗi giá trị, lưu vực sông Mêkông với thế mạnh đến từ thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên dồi dào, sản vật phong phú trước đây vẫn thường đóng vai trò là vùng nguyên liệu cho các chuỗi giá trị ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến. Nhưng ngày nay, những ảnh hưởng của BĐKH đang khiến cho vai trò này trở nên suy yếu.

Một số quốc gia đã định vị lại vai trò của mình, chuyển từ vùng nguyên liệu thành vùng cung cấp năng lượng, cụ thể là thủy điện trong bối cảnh khủng hoảng năng lượng trên thế giới, các quốc gia khác tiếp tục duy trì vai trò cung cấp nông sản. Cả hai sự lựa chọn này có nhiều mâu thuẫn và ít nhiều ảnh hưởng đến nhau. Các vùng năng lượng sẽ tham gia chuỗi giá trị dưới vai trò cung cấp năng lượng cho hoạt động sản xuất tại mỗi quốc gia cho thấy sự chuyển từ thượng nguồn sang ủng hộ mạnh mẽ hơn cho trung nguồn ở một số chuỗi giá trị trọng tâm khác.

Trong khi đó, để tiếp tục duy trì vai trò của thượng nguồn, đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho chuỗi giá trị nông nghiệp và công nghiệp chế biến, các nước buộc phải có thế mạnh về hoạt động nghiên cứu đổi mới sáng tạo, phải đảm bảo hiệu suất sản xuất nông sản và chất lượng của nguyên liệu trong bối cảnh eo hẹp về số lượng, chất lượng nước, đất đai, sản vật tự nhiên.

Nếu nhìn về trung nguồn của chuỗi giá trị, sẽ thấy rõ sự dịch chuyển mạnh mẽ về quy mô từ chuỗi giá trị các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến sang các ngành công nghiệp khác do sự chuyển hướng của thượng nguồn. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, việc chuyển đổi ngay lập tức là không khả thi. Các mắt xích sản xuất, chế biến, đóng gói nông sản cố gắng duy trì hoạt động. Các quốc gia có thế mạnh về nghiên cứu, đổi mới sáng tạo sẽ có ưu thế hơn trong việc tiếp tục phát triển các hoạt động sản xuất, chế biến nông sản.

Đối với việc chuyển đổi trung nguồn sang các ngành công nghiệp khác, trong nhất thời, sự dịch chuyển này chưa thể rõ ràng ở lưu vực sông Mêkông khi các cụm ngành hỗ trợ chưa kịp hình thành và các nguồn lực về con người, tài chính, công nghệ chưa kịp đổ về khu vực này. Tuy nhiên, khả năng kết nối với các khu vực khác có thể sẽ tạo ra sự dịch chuyển kinh tế mạnh mẽ từ các ngành truyền thống sang các ngành công nghiệp khác có nhiều lợi thế hơn. Xu hướng này sẽ càng được ủng hộ hơn khi quá trình đô thị hóa toàn cầu đang rơi vào đỉnh điểm khiến chi phí sản xuất tại các thành phố lớn ngày càng tăng cao, các cơ sở sản xuất sẽ có xu hướng dịch chuyển về các vùng có chi phí rẻ hơn. Lưu vực sông Mêkông sẽ là một sự lựa chọn thích hợp nếu các điều kiện hạ tầng giao thông được cải thiện.

Ở hạ nguồn, các hoạt động thương mại dịch vụ có khuynh hướng xoay trục và bắt đầu chuyển sang đẩy mạnh kết nối tiêu thụ sản phẩm với một số vùng thay thế khác bên cạnh lưu vực sông Mêkông. Bên cạnh đó, phân khúc gần với thị trường tiêu dùng đang có chiều hướng phát triển theo chiều sâu nhiều hơn là chiều rộng. Các thị trường bắt đầu chuyển từ yêu cầu về số lượng sang chất lượng và khắt khe hơn về các tiêu chuẩn môi trường. Hạ nguồn đang đòi hỏi ngày càng cao đến từ sự phát triển của tầng lớp trung lưu tại các khu vực và tính khẩn cấp của tác động từ BĐKH.

Biến đổi khí hậu thay đổi tập quán tiêu dùng trên thị trường tiêu thụ của các ngành sản xuất kinh doanh

Đối với nhu cầu thị trường về giống, người nông dân bắt đầu có nhu cầu tìm mua những giống cây trồng mới, không chỉ để sống sót mà còn để thịnh vượng trong môi trường ngày càng khắc nghiệt. Thị trường cũng phản ánh điều này khi người tiêu dùng giờ đây tìm kiếm những sản phẩm nông nghiệp sạch, hữu cơ, được nuôi trồng trong sự hài hòa với thiên nhiên, không còn phụ thuộc vào hóa chất độc hại.

Trong các chợ và siêu thị dọc theo dòng Mêkông, người ta dễ dàng thấy sự thay đổi trong giỏ hàng của mỗi gia đình. Rau củ không hóa chất, gạo hữu cơ và những con cá tươi sạch từ các ao nuôi tự nhiên được ưu tiên hơn cả. Những chiếc túi nylon, từng là một phần không thể thiếu, giờ dần bị thay thế bởi những túi vải tái sử dụng, như một lời nhắc nhở âm thầm về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường. Những thay đổi nhỏ bé này, dù lặng lẽ, nhưng lại phản ánh một cuộc cách mạng lớn đang diễn ra trong tư duy của người tiêu dùng – họ không chỉ mua những gì họ cần, mà còn cân nhắc về cách chúng ảnh hưởng đến thế giới xung quanh.

Ngành công nghiệp điện tử cũng không đứng ngoài cuộc. Những sản phẩm công nghệ xanh, tiết kiệm năng lượng đang trở thành lựa chọn hàng đầu.

Thói quen tiêu dùng cũng đang thay đổi trong lĩnh vực du lịch. Những cánh rừng ngập mặn, những ngôi làng ven sông, giờ đây trở thành điểm đến hấp dẫn không chỉ vì vẻ đẹp hoang sơ mà còn vì sự bền vững mà chúng đại diện. Du khách tìm kiếm những trải nghiệm gần gũi với thiên nhiên, mong muốn được hòa mình vào cuộc sống địa phương một cách nhẹ nhàng, không để lại dấu vết. Các doanh nghiệp du lịch phải nhanh chóng chuyển mình, phát triển các tour du lịch sinh thái, các khu nghỉ dưỡng xanh để đón nhận làn sóng du khách có ý thức môi trường này.

Bức tranh kinh tế mới và trách nhiệm “không ai bị bỏ lại phía sau”

Chính phủ các quốc gia quanh lưu vực Mêkông, một khi đã nhận thức được sự cấp bách của tình hình, phải đứng lên đảm nhận vai trò dẫn dắt. Họ cần ban hành các chính sách kịp thời và hiệu quả, điều phối sự chuyển đổi từ các phương thức sản xuất truyền thống sang những mô hình bền vững hơn. Đây không chỉ là việc điều chỉnh nền kinh tế mà còn là việc đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường cho tương lai.

Ví dụ, Chính phủ Việt Nam đã triển khai các chương trình hỗ trợ nông dân chuyển đổi từ trồng lúa nước truyền thống sang các giống lúa chịu mặn, kết hợp với nuôi tôm. Những chính sách này không chỉ giúp nông dân bảo vệ sinh kế mà còn giúp thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, từ đó tạo ra cơ hội xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho người dân.

Các doanh nghiệp trong khu vực cũng không thể chỉ tập trung vào việc bán hàng như trước kia mà phải biết cách kể những câu chuyện về trách nhiệm môi trường. Hãy nhìn vào ví dụ của một số doanh nghiệp trong ngành thủy sản tại đồng bằng sông Cửu Long, họ đã không chỉ dừng lại ở việc cung cấp sản phẩm mà còn đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu bền vững.

Các tổ chức xã hội, hiệp hội doanh nghiệp đóng vai trò không thể thiếu như những người bạn đồng hành đáng tin cậy của cộng đồng địa phương. Họ cung cấp không chỉ hỗ trợ kỹ thuật và tài chính mà còn giúp nâng cao nhận thức, giáo dục người dân về cách sống và làm việc phù hợp với những điều kiện mới. Sự hỗ trợ này là cần thiết để đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau trong hành trình thích ứng với BĐKH.

Ví dụ, tại Campuchia, một số tổ chức xã hội đã triển khai các dự án cộng đồng nhằm hỗ trợ nông dân tiếp cận với kỹ thuật canh tác mới và các giống cây trồng chịu hạn. Họ không chỉ cung cấp kiến thức, mà còn hỗ trợ tài chính và thiết bị, giúp người dân địa phương có thể tự mình xây dựng những hệ thống tưới tiêu tiết kiệm nước, từ đó nâng cao năng suất và đảm bảo an ninh lương thực. Những nỗ lực này đã giúp tạo nên sự thay đổi bền vững, khi mà cộng đồng không chỉ được trang bị kỹ năng mà còn xây dựng được tinh thần tự chủ, sẵn sàng đối mặt với những thách thức từ BĐKH.

(*) Giám đốc chuyên môn – Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tâm Việt – Tâm Việt Education
(**) Giảng viên khoa Quan hệ Quốc tế – Đại học UEF

 

https://thesaigontimes.vn/buc-tranh-kinh-te-moi-duoc-bien-doi-khi-hau-ve-ra-o-luu-vuc-song-mekong

NỘI DUNG KHÁC

Tạo dòng tài chính mới từ thị trường carbon

23-8-2024

Chiều 22/8, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp cho ý kiến hoàn thiện dự thảo Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam.

Trung Quốc ăn sầu riêng nhiều nhất thế giới, phát thải ra lượng CO2 khổng lồ

14-8-2024

Người dân Trung Quốc đang ăn sầu riêng nhiều nhất thế giới. Cũng bởi vậy, Trung Quốc đang phải đối mặt với vấn đề tăng phát thải khí nhà kính khi cây sầu riêng và sản phẩm vỏ sầu riêng tạo ra lượng CO2 khổng lồ.

Với Việt Nam, EVFTA chắc chắn là thành công lớn

13-8-2024

Những tiêu chuẩn cao của EVFTA giúp nền kinh tế Việt Nam mở rộng thương mại, đạt được lợi thế rõ rệt trong việc tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại toàn cầu. Trao đổi với phóng viên Báo Thế giới & Việt Nam, GS. TS. Andreas Stoffers, chuyên gia nghiên cứu về kinh tế Việt Nam hiện đang sống tại Đức nhận định, các số liệu kinh tế của Việt Nam trong năm 2024 đã chứng minh lợi ích từ “hiệp định lịch sử” với Liên minh châu Âu (EU).

Vùng chuyên canh lúa - tôm đầu tiên của Việt Nam nhận chứng nhận BAP

22-8-2024

Đây là chứng nhận quốc tế thứ 2 và là chứng nhận BAP đầu tiên của Việt Nam được trao cho vùng chuyên canh tôm lúa ở tỉnh Cà Mau.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan: ‘Làm tốt các khâu, thu nhập nông dân sẽ cao hơn’

13-8-2024

Bộ trưởng Lê Minh Hoan đã có những chia sẻ xung quanh đề xuất thành lập Hội đồng lúa gạo quốc gia, trong đó ông cho rằng nếu làm tốt các khâu, mục tiêu cuối cùng là thu nhập của nông dân sẽ cao hơn.

[Báo cáo] Thị trường cà phê quý II: Nỗi lo thiếu hụt nguồn cung quay trở lại

13-8-2024

Thị trường ngày càng lo ngại nguồn cung cà phê toàn cầu bị thiếu hụt, phản ánh trong việc giá quay trở lại đà tăng trong tháng đầu tháng 7.

Agribank cung ứng vốn tín dụng phát triển 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao

13-8-2024

VTV.vn - Trong tổng mức đầu tư khoảng 800 triệu USD thực hiện Đề án phát triển 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, Agribank sẽ là ngân hàng chủ lực cung ứng vốn tín dụng...

Năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam bằng 40% Thái Lan

13-8-2024

Sáng 7/8, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan chủ trì Hội nghị triển khai xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực ngành NN-PTNT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

EUDR - 5 tháng nữa sẽ biết ai cầu thủ, ai khán giả!

12-8-2024

Quy định về việc quản lý nhập khẩu và xuất khẩu các sản phẩm không gây phá rừng, suy thoái rừng của Châu Âu (EUDR) có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 30/12/2024. Theo đó, cà phê, gỗ và cao su của Việt Nam xuất sang thị trường EU phải được truy xuất nguồn gốc đến từng vườn, không có nguồn gốc từ đất do phá rừng hoặc góp phần vào suy thoái rừng tính từ thời điểm 30/12/2020.

Xuất khẩu thủy sản hồi phục và tăng tốc hướng tới mục tiêu 10 tỷ đô la mỹ

13-8-2024

Trong 6 tháng đầu năm, ngành thủy sản đối mặt nhiều khó khăn thách thức do ảnh hưởng của biến động thế giới về chính trị, kinh tế, xã hội, tuy nhiên giá trị xuất khẩu thủy sản vẫn tăng trưởng hơn 6% so với cùng kỳ. Dự báo tình hình xuất khẩu thủy sản sẽ tăng tốc vào Quý III và Quý IV/2024.

Luật Đất Đai 2024: Những điểm mới và tác động kỳ vọng

13-8-2024

Ngày 18/01/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai 2024, thay thế Luật Đất đai 2013, có hiệu lực từ ngày 01/08/2024. Luật mới có nhiều điểm đổi mới quan trọng, được kỳ vọng sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai. So với Luật Đất đai 2013, Luật Đất đai 2024 đã thể chế nhiều nội dung mới mang tính chất đột phá quan trọng, góp phần vào mục tiêu hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất như: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; tài chính đất đai, giá đất; đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số; điều tra, đánh giá đất đai, bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất; xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về đất đai; phân cấp, phân quyền, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, sử dụng đất đai; giám sát, theo dõi, đánh giá việc quản lý, sử dụng đất.

Lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ: Những động thái mới nhất

30-7-2024

Ấn Độ đang xem xét điều chỉnh lệnh hạn chế xuất khẩu gạo theo hướng giảm giá xuất khẩu tối thiểu của gạo basmati; giảm thuế xuất khẩu 20% đối với gạo đồ….