TIN TỨC-SỰ KIỆN

Nghiên cứu phân tích đặc tính kinh tế lĩnh vực lâm nghiệp nhằm cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các chính sách phát triển kinh tế bền vững, giảm áp lực lên đa dạng sinh học tại Việt Nam

Ngày đăng: 07 | 11 | 2023

Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp tiếp cận kế thừa (dựa trên kết quả nghiên cứu của Sáng kiến Thúc đẩy Cam kết Đa dạng sinh học - BIODEV2030.1) và phương pháp phân tích dựa trên chuỗi cung ứng để xác định và đánh giá các nhân tố trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên đa dạng sinh học, các nhân tố tạo ra hoặc giảm thiểu tác động lên đa dạng sinh học và vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan/chủ thể đối với suy giảm đa dạng sinh học dọc theo các chuỗi cung ứng chủ lực trong lâm nghiệp; qua đó, cung cấp cơ sở cho các cuộc đối thoại và xây dựng các chính sách quản lý và phát triển các chuỗi cung ứng bền vững góp phần ngăn ngừa suy thoái/giảm áp lực lên đa dạng sinh học trong  lĩnh vực lâm nghiệp của Việt Nam.

Tính đến năm 2021, tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc là 42,01%. Đất có rừng tập trung chủ yếu ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc (40,5%), Bắc Trung Bộ (21,3%), Tây Nguyên (17,5%) và duyên hải miền Trung (16,6%). Rừng và đất rừng của Việt Nam được quản lý bởi 9 nhóm chủ thể: (i) Ban Quản lý rừng đặc dụng; rừng phòng hộ; (ii) Tổ chức kinh tế; (iv) Đơn vị thuộc lực lượng vũ trang; (v) Các tổ chức khoa học, công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp về lâm nghiệp; (vi) Hộ gia đình, cá nhân trong nước; (vii) Cộng đồng dân cư; (viii) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và (ix) Ủy ban nhân dân xã. Xét theo diện tích được giao quản lý, nhóm cá nhân, hộ gia đình hiện đang là các chủ rừng lớn nhất (với 23,3% tổng diện tích rừng và đất của của cả nước), cũng đồng thời là nhóm chủ rừng trồng lớn nhất với diện tích quản lý là 1,87 triệu ha (chiếm tới 42,6% diện tích rừng trồng cả nước), trong khi đó nhóm Ban Quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng là những chủ rừng tự nhiên lớn nhất với diện tích quản lý là 4,5 triệu ha (chiếm 44,6% diện tích rừng tự nhiên của cả nước) .

Ngành lâm nghiệp có 2 chuỗi cung ứng chính là chuỗi cung ứng gỗ (rừng trồng) và các sản phẩm từ gỗ và chuỗi cung ứng dịch vụ môi trường rừng (rừng tự nhiên). Chuỗi cung ứng gỗ và các sản phẩm từ gỗ rừng trồng bao gồm 4 thành phần: trồng rừng, khai thác gỗ, chế biến gỗ và tiêu thụ/kinh doanh gỗ và các sản phẩm từ gỗ. Các tác động đến đa dạng sinh học phát sinh từ việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, khai thác, làm đường vận chuyển, sử dụng nhiên liệu và chất thải (từ các thiết bị cơ giới, phế phẩm); và nhu cầu, yêu cầu về các sản phẩm từ gỗ v.v. Trong chuỗi cung ứng gỗ, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu/chế biến gỗ quy mô lớn có vai trò dẫn dắt, điều chỉnh các thực hành trong chuỗi theo nhu cầu của thị trường, trong đó có các yêu cầu về các chuẩn bền vững; các doanh nghiệp trồng rừng quy mô lớn của nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra thay đổi trong chuyển đổi trồng rừng chu kỳ ngắn/gỗ nhỏ sang trồng rừng gỗ lớn/chu kỳ dài. Chuỗi cung ứng dịch vụ môi trường rừng bao gồm 3 thành phần: quản lý và bảo vệ rừng, phục hồi rừng và phát triển rừng và cải thiện sinh kế. Các thực hành trong chuỗi tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đến đa dạng sinh học vì liên quan đến rừng tự nhiên – vốn có mức độ đa dạng sinh học cao hơn hẳn so với rừng trồng. Trong chuỗi cung ứng dịch vụ môi trường rừng, các Ban Quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng có vai trò quan  trọng nhất trong việc tạo ra các thay đổi giúp tăng cường đa dạng sinh học /giảm áp lực lên đa dạng sinh học.

Kết quả phân tích mối quan hệ giữa đa dạng sinh học với một số yếu tố phát triển trong chuỗi cung ứng gỗ (rừng trồng) cho thấy: đa dạng sinh học có mối quan hệ tỷ lệ thuận với giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ, giá trị xuất khẩu đồ nội-ngoại thất từ gỗ và thu nhập trung bình của người lao động trong ngành lâm nghiệp. Ngược lại, đa dạng sinh học có quan hệ tỷ lệ nghịch với Tổng sản phẩm quốc nội và năng suất rừng trồng. Trong chuỗi cung ứng dịch vụ môi trường rừng: đa dạng sinh học có mối quan hệ tỷ lệ thuận với giá trị xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ và diện tích rừng được quản lý bởi cộng đồng; đồng thời, có quan hệ tỷ lệ nghịch với thu nhập của người lao động làm trong các công ty, doanh nghiệp lâm nghiệp (lực lượng lao động chính thức).

Kết quả phân tích đã đưa ra một số gợi ý cho việc cải thiện đa dạng sinh học trong ngành lâm nghiệp trong thời gian tới: duy trì ổn định cơ cấu các loại rừng và hạn chế tối đa việc chuyển đổi rừng tự nhiên sang rừng trồng; tăng cường quản lý rừng bền vững đi đôi với làm giàu rừng/nâng cao chất lượng rừng tự nhiên; và mở rộng diện tích tích rừng trồng gỗ lớn/có chứng chỉ/chu kỳ dài. Trong chuỗi cung ứng gỗ (rừng trồng), để cải thiện đa dạng sinh học cần thúc đẩy tích tụ đất đai để mở rộng diện tích rừng trồng gỗ lớn/chu kỳ dài, có chứng chỉ, qua đó, thúc đẩy các hoạt động chế biến sâu, nâng cao giá trị cho các thành phần của chuỗi; phát triển các chương trình lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng. Với chuỗi cung ứng dịch vụ môi trường rừng (rừng tự nhiên): thúc đẩy các mô hình phát triển lâm sản ngoài gỗ và các mô hình sinh kế (du lịch sinh thái, hấp thụ các bon rừng v.v) nhằm nâng cao thu nhập cho những người làm nghề rừng; đẩy mạnh công tác giao đất giao rừng cho cộng đồng dân cư/tập thể để tăng cường hiệu quả giám sát, bảo vệ tài nguyên rừng; thúc đẩy Chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Một số can thiệp bền vững gồm: quản lý rừng bền vững, chuyển đổi rừng trồng chu kỳ ngắn sang chu kỳ dài, mở rộng diện tích rừng trồng có chứng chỉ, Chứng nhận Chuỗi hành trình sản phẩm, liên kết chuỗi, thúc đẩy cam kết trách nhiệm xã hội của khối doanh nghiệp, nghiên cứu mở rộng chi trả dịch vụ môi trường rừng  v.v.

Các kết quả phân tích về kịch bản phát triển của ngành lâm nghiệp cho thấy: Ngành lâm nghiệp sẽ đạt được mục tiêu kép “vừa đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần làm giảm áp lực lên đa dạng sinh học” nếu các can thiệp bền vững cùng lúc được thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả. Đáng lưu ý là các biện pháp can thiệp bền vững này chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: cơ chế-chính sách, cấu trúc quản lý và  quy hoạch 3 loại rừng, vai trò dẫn dắt của các chủ thể đứng đầu các chuỗi. Việc triển khai đồng bộ các biện pháp can thiệp nhằm cải thiện đa dạng sinh học trong ngành lâm nghiệp cần có sự vào cuộc và cam kết tham gia của nhiều bên liên quan.

Trần Đại Nghĩa, Lê Trọng Hải, Nguyễn Thu Hằng và Nguyễn Thị Nhạn-IPSARD, Trích lược từ nghiên cứu được Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF) xuất bản  2022

NỘI DUNG KHÁC

Quy định chống phá rừng của Liên minh Châu Âu: Thách thức và cơ hội của cà phê Việt Nam

7-11-2023

Ngày 16/5/2023, Nghị viện Châu Âu thông qua quy định chống phá rừng. Lộ trình của quy định này là từ tháng 11/2021, Ủy ban Châu Âu đề xuất; tháng 6/2022, cách tiếp cân chung của Hội đồng Châu Âu; tháng 9/2022, Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu; tháng 11/2022, thỏa thuận chính trị sơ bộ giữa Nghị viện và Hội đồng Châu âu; tháng 5/2023, thông qua; tháng 12/2024 có hiệu lực; đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lùi thời hạn đến tháng 6/2025.

Kinh nghiệm một số nước ứng phó với các tác động của cuộc xung đột Nga-Ukraina

7-11-2023

Cuộc xung đột đã gây ra lo ngại về an ninh lương thực trong các quốc gia Liên minh Châu Âu. Sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng và tăng giá các sản phẩm nông nghiệp gây ra sự thiếu hụt thực phẩm và ảnh hưởng đến an ninh lương thực trong khu vực Liên minh Châu Âu và nhiều quốc gia nhập khẩu khác. Điều này đặt ra thách thức đối với các quốc gia Liên minh Châu Âu trong đảm bảo nguồn cung ứng ổn định và đa dạng hóa nguồn cung cấp thực phẩm. Mặt khác, thiếu hụt và chi phí năng lượng tăng cao, điển hình giá trần điện và khí đốt tăng lên từ 80-100% kể từ xung đột diễn ra. Tại thị trường châu Âu, giá khí đốt đạt mức kỷ lục 345 euro/MWh hồi tháng 3/2022 và mức giá này đã tăng 5,5 lần chỉ trong vòng 12 tháng  Lạm phát ở mức cao nhất trong 3-4 thập kỷ qua

Thực hiện bình đẳng giới trong xây dựng nông thôn mới

7-11-2023

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 đặt ra mục tiêu: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”. Trong bối cảnh đó, các dữ liệu cơ bản về bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm rõ thực trạng bình đẳng giới và những tiến bộ của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực. Các dữ liệu này sẽ làm căn cứ cho việc tổng kết thực hiện chính sách giai đoạn hiện nay và khuyến nghị, đề xuất xây dựng các chính sách về bình đẳng giới nói chung.

Tăng khả năng liên kết chuỗi trong hợp tác xã nông nghiệp

6-11-2023

Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) là vùng có tỷ lệ hợp tác xã (HTX) tham gia liên kết tiêu thụ sản phẩm cho thành viên lớn nhất cả nước.

Luật Hợp tác xã năm 2023: Động lực thúc đẩy đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể

30-10-2023

Luật Hợp tác xã năm 2023 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 20/6/2023 (thay thế Luật Hợp tác xã năm 2012), bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, được kỳ vọng sẽ tạo động lực cho kinh tế tập thể tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả trong bối cảnh mới của đất nước, bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.

Mô hình Hợp tác xã đổi mới để phát triển tại Đông Xuyên, Thái Bình

30-10-2023

Trong 10 năm thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 899/QĐ-TTg ngày 10/06/2013 phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ngành nông nghiệp đã có những kết quả nhất định trong phát triển, cơ cấu lại các tiểu ngành.

Phát triển ngành tôm ít phát thải, bền vững ở Việt Nam

30-10-2023

Ngày 26/10, tại Bạc Liêu, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, Bộ NN&PTNT phối hợp với Sở NN&PTNT tỉnh Bạc Liêu đã tổ chức Hội thảo phát triển ngành tôm ít phát thải và bền vững ở Việt Nam.

HTX cần quan tâm đến vấn đề quản trị sở hữu trí tuệ

26-10-2023

Không chỉ xin bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở trong nước và nước ngoài, mà ngay cả khi tạm ngừng hoạt động hoặc chuyển địa điểm, thậm chí là phải giải thể, các HTX cũng vẫn cần quan tâm đến tài sản vô hình này.

Thế nào là nông thôn văn minh

Nông thôn văn minh không chỉ là nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn mà còn góp phần bảo vệ môi trường, duy trì các giá trị văn hóa truyền thống.

Ngày lương thực Thế giới 2023: Nước là sự sống, Nước là thực phẩm

16-10-2023

Ngày Lương thực Thế giới năm 2023 (World Food Day) có chủ đề “Nước là sự sống, Nước là thực phẩm. Không bỏ ai ở lại phía sau” (Water is Life, Water is Food. Leave No One behind). Chủ đề năm nay nhằm mục đích nêu bật vai trò quan trọng của nước đối với sự sống trên trái đât và nước là nền tảng cho sản xuất lương thực, thực phẩm. Với chủ đề này, các chuyên gia và các nhà hoạt động mong muốn nâng cao nhận thức toàn cầu về tầm quan trọng của việc quản lý nước một cách thông minh trong bối cảnh dân số tăng nhanh, phát triển kinh tế nóng, đô thị hóa và biến đổi khí hậu đang đe dọa nguồn nước sẵn có.

Đánh giá kết quả giữa kì nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế 2021-2025

16-10-2023

Đánh giá giữa kì kết quả thực hiện các mục tiêu của Nghị định 31/2021/QH15 và 102 nhiệm vụ xây dựng chương trình, đề án triển khai nghị quyết về kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn 2021-2025 cho thấy, trong 23 mục tiêu, 10 mục tiêu có khả năng hoàn thành và 13 mục tiêu rất thách thức cần các giải pháp thúc đẩy để hoàn thành.  Trong 102 nhiệm vụ, có 35 nhiệm vụ đã hoàn thành và 30 nhiệm vụ đang hoàn thiện, 37 nhiệm vụ đang triển khai. Như vậy, đến thời điểm hiện tại, có 63% số nhiệm vụ đã hoàn thành và dự kiến hoàn thành.