TIN TỨC-SỰ KIỆN

Khoảng trống trong kiểm soát rau an toàn

Ngày đăng: 22 | 06 | 2012

Kết quả điều tra của VINASTAS và Viện IPSARD, gần 90% người tiêu dùng tại các tỉnh miền Bắc đánh giá rau an toàn (RAT) là quan trọng nhất trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình. Đa số người tiêu dùng đều chấp nhận mua RAT với mức giá cao hơn rau thông thường từ 10-20% thậm chí đến 50%. Nhưng làm thế nào để mua được sản phẩm RAT, vẫn còn là bài toán khó chưa có lời giải.

Chiều 19/6/2012, Viện Chính sách và Chiến lược nông nghiệp nông thôn (IPSARD) phối hợp với Tổ chức VECO, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hệ thống nông nghiệp (CASRAD) tổ chức hội thảo “Khoảng trống trong kiểm soát ATTP hiện nay đối với sản phẩm rau”. RAT trở thành chương trình mục tiêu quốc gia bắt đầu từ năm 2000, ban đầu tập trung tại các vùng ven đô và vùng phụ cận nhằm đápứng cho nhu cầu rau của các thành phố lớn. Đặc biệt là Thành phố Hà Nội từng đề ra mục tiêu đến năm 2010, 100% diện tích rau sản xuất tại ở Hà Nội đủ điều kiện sản xuất RAT. Thế nhưng đến hết tháng 12/2010, trong tổng số 11.650ha của Thành phố Hà Nội mới có 321ha được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn. Đến năm 2012, diện tích RAT của Hà Nội không những không tăng lên mà còn giảm đi so với năm 2010. Nhìn rộng ra cả nước, diện tích sản xuất rau có kiểm soát chất lượng trên toàn quốc mới chỉ xấp xỉ 0,1%. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến một sản phẩm có nhu cầu thị trường cao, được Nhà nước tập trung đầu tư nhưng sản xuất không mở rộng được?
TS Trần Công Thắng trình bày tại Hội thảo (Ảnh: AGROINFO)
 
TS Trần Công Thắng, chuyên gia của Viện IPSARD cho biết, khảo sát mới đây của IPSARD cho thấy nhu cầu tiêu dung rau ở khu vực nội thành Hà Nội khoảng 1.500 tấn/ngày. Tuy nhiên sản lượng RAT mới chỉ đáp ứng 14% nhu cầu của người tiêu dùng. Mức tỷ trọng RAT trong tổng chi phí mua rau của các hộ gia đình chiếm từ 20-60%, trong đó lớn nhất là tại quận Ba Đình, tiếp theo là các huyện Từ Liêm, quận Đống Đa, Cầu Giấy. Có tới 92,2% số người tiêu dùng RAT cho rằng RAT bán trên thị trường có chất lượng tốt hơn so với rau thường. Thế nhưng, phần lớn người tiêu dùng không thực sự phân biệt được RAT với rau thường thông qua cảm nhận bề ngoài, đó là nguyên nhân khiến họ không mua RAT. Có 55% số người tiêu dùng kiểm tra chất lượng RAT chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận; 29,4% kiểm nghiệm thông qua thực tế tiêu dùng; 5,9% dựa vào uy tín của cửa hàng; chỉ có 9,8% số người tự sử dụng các thiết bị kiểm tra chất lượng nhưng là thiết bị rất thô sơ. Đa số người tiêu dùng cho rằng giá RAT chỉ nên bán đắt hơn rau thường khoảng 20% thì họ sẽ chấp nhận, chỉ có một số ít trường hợp chấp nhận mức giá bán gấp đôi so với rau thường. 
Tại thị trường Hà Nội, một phần do tính phức tạp của các nhóm dân cư, phần khác do những bất cập, hạn chế trong khâu phân phối RAT, đến nay có thể nói nhu cầu tiêu thụ rau an toàn (RAT) của người tiêu dùng Hà Nội chưa được đáp ứng đúng mức, trong khi người sản xuất rau vẫn gặp nhiều khó khăn về đầu ra. Theo Viện Nghiên cứu rau quả Trung ương thì hiện nay chỉ có 15-20% lượng RAT được tiêu thụ qua các bếp ăn, siêu thị, cửa hàng, còn lại phần lớn được tiêu thụ tại các chợ lân cận, tỉnh bạn, giá bán chỉ tương đương với rau sản xuất đại trà. Hiện nay tại Hà Nội có 22 mô hình liên kết sản xuất với tiêu thụ nhưng sản lượng quá nhỏ so với nhu cầu của Hà Nội. Ngoài ra, một số doanh nghiệp nhỏ có liên kết với nông dân trong sản xuất, song kinh nghiệm khai thác thị trường chưa tốt, hiệu quả không cao, nên không mở rộng ra sản xuất.
TS Dương Ngọc Thí phát biểu tại Họi thảo (Ảnh: AGROINFO)
 
Theo một cuộc nghiên cứu về thương mại rau an toàn tại Hà Nội do Viện IPSARD, Viện Rau quả Trung ương và một số chuyên gia Bộ Công Thương phối hợp tiến hành năm 2011, trên mẫu là 50 cơ sở kinh doanh tại các quận nội thành của Hà Nội, kết quả cho thấy việc xây dựng kế hoạch kinh doanh giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự thành công của các cơ sở kinh doanh rau an toàn. Tuy nhiên hiện nay, tỷ lệ số cơ sở sản xuất xây dựng kế hoạch phát triển sản phẩm kinh doanh rau an toàn mới chiếm khoảng 48,98%. Điều này cho thấy mức độ chuyên nghiệp và có định hướng trong sản xuất rau tuy vẫn chưa đồng đều nhưng đã được cải thiện so với những năm trước. Có 28% số cơ sở cho rằng sẽ mở rộng cửa hàng, chi nhánh và 2% cho biết sẽ phát triển các kênh phân phối khác (như giao hàng tại nhà, bán hàng qua mạng). Khoảng 80% số cơ sở bán lẻ RAT được điều tra cho biết đã đầu tư cho việc xây dựng, quảng bá thương hiệu RAT. 
Theo Chi cục BVTV Hà Nội, việc tiêu thụ RAT lại gặp rất nhiều khó khăn do chưa phân biệt được rau bẩn, rau sạch, sự nhập nhèm giữa RAT và rau đại trà khó được kiểm soát. Năm 2011, Chi cục lấy 600 mẫu rau “mang danh” RAT trên thị trường Hà Nội để phân tích kiểm tra chất lượng. Kết quả phát hiện 25 mẫu có dư lượng thuốc BVTV vượt mức giới hạn tối đa cho phép (chiếm 4,1%). Điều này cho thấy tình trạng không minh bạch trên thị trường rau tại Hà Nội hiện nay. Nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài sẽ hạn chế động lực tham gia thị trường của các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh RAT, khiến hoạt động thương mại RAT không có cơ hội phát triển.
Các chuyên gia của Viện IPSARD đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh thương mại RAT. Minh bạch hóa thị trường RAT là một trong những yêu cầu tất yếu cho việc phát triển thương mại bình đẳng về rau quả tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Từ trước tới nay, kinh doanh rau thường được thực hiện theo các phương thức truyền thống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tại nhiều nước trên thế giới và một số đơn vị tiên phong của Việt Nam, việc ứng dụng thương mại điện tử và các phương thức thương mại hiện đại khác đang giúp cho việc kinh doanh RAT trở nên dễ dàng hơn. Nhiều trang điện tử kinh doanh rau sạch hoặc thực phẩm sạch trong đó có rau đang góp phần cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về vai trò của RAT đối với sức khỏe.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (VINASTAS) cho biết, năm 2012, VINASTAS đã chính thức công bố bản đồ vùng sản xuất và các điểm bán lẻ RAT tại Hà Nội và các khu vực lân cận. Bản đồ RAT được xử lý bằng GIS, vị trí cửa hàng rau được kết nối với Google Map qua địa chỉ  http://taya.dyndns.info/rausach. Tại đây, các cửa hàng có đầy đủ các thông tin như địa chỉ, số điện thoại... Các vùng sản xuất rau an toàn, rau hữu cơ cũng được chia sẻ trên bản đồ kèm theo các thông tin về loại hình sản xuất (hợp tác xã, nhóm sản xuất, công ty), quy trình sản xuất và chứng nhận chất lượng (VietGAP, rau hữu cơ, rau an toàn), quy trình kiểm tra chất lượng...
Điều đặc biệt, đây là bản đồ "mềm" chứ không cố định. VINASTAS sẽ theo dõi, giám sát các cửa hàng, điểm bán lẻ (thanh, kiểm tra thường xuyên; đột xuất các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất, sơ chế, chế biến, kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội). Trong trường hợp phát hiện ra cửa hàng RATkhông đảm bảo các tiêu chí đề ra sẽ bị loại khỏi bản đồ. Tại hội thảo, TS Đào Thế Anh, chuyên gia của (CASRAD) cũng đã trình bày ý tưởng về việc xây dựng Hệ thống bảo đảm RAT (PGS) – đây sẽ là hướng đi mới cho RAT. Hệ thống này sẽ huy động được sự tham gia của các tác nhân trong ngành hàng rau, hình thành và tăng cường lòng tin vào chất lượng sản phẩm RAT.
Theo Chu Khôi - Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 20/6/2012

NỘI DUNG KHÁC

Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp: Nông dân vẫn đứng... ngoài cuộc!

22-6-2012

Là 1 trong 20 tỉnh được chỉ đạo thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) giai đoạn 2011-2013 nhưng đến nay, TP.Hải Phòng vẫn chưa ký được bản hợp đồng BHNN nào.

Nông dân ĐBSCL: “Choáng” với giá vật tư nông nghiệp

22-6-2012

Trong khi giá các mặt hàng nông sản ở ĐBSCL liên tục giảm thì trái lại, các loại vật tư đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản... đã liên tục tăng giá vào đúng thời điểm người dân bắt đầu sản xuất vụ mới.

Liên kết để nghề nuôi tôm phát triển bền vững

22-6-2012

Tôm chết chưa rõ nguyên nhân đang khiến nhiều nông dân Bạc Liêu đau đầu. Tính đến nay, diện tích tôm chết đã vượt quá con số 8.120ha. Thực trạng này đặt ra vấn đề nóng bỏng: Hướng đi nào bền vững cho nghề nuôi tôm?

Kiến nghị mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo vụ hè thu

22-6-2012

Tại cuộc họp bàn giải pháp tiêu thụ lúa, gạo hè thu 2012 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/6 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì, sau khi tham khảo ý kiến từ các địa phương, ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết sẽ đề xuất Chính phủ tiếp tục mua tạm trữ lúa gạo trong vụ hè thu sắp tới.

Đầu tư nông nghiệp chưa xứng tầm

20-6-2012

Quốc hội vừa thảo luận về đề án tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó tập trung nhiều đến vấn đề nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Trao đổi với NNVN, TS Phùng Đức Tiến, ĐB Quốc hội tỉnh Hà Nam cho rằng tuy Đảng, Chính phủ đã dành nhiều quan tâm cho nông nghiệp nhưng đầu tư vào ngành kinh tế quan trọng này vẫn còn khiêm tốn.

Bộ Nông nghiệp gỡ khó cho thủy sản xuất khẩu

20-6-2012

Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cho biết Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã điều chỉnh một số biện pháp kiểm tra hóa chất, dư lượng kháng sinh đối với các lô hàng thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản và Canada.

Vùng trồng cà phê Arabica ngon nhất Việt Nam mất mùa lớn

20-6-2012

Vùng trồng cà phê Arabica ngon nhất Việt Nam hiện nay ở Lâm Đồng đang đứng trước nguy cơ mất mùa lớn, sản lượng có thể giảm tới trên 50% so với niên vụ trước.

Sản xuất, tiêu thụ cây có múi: Chông gai đi tới bền vững

20-6-2012

Câu chuyện quy hoạch vùng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cây ăn trái nói chung và cây có múi nói riêng đã được đề cập cách nay rất lâu. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện dường như đã trở thành một căn bệnh khó trị và chuyện được mùa mất giá, sản xuất theo phong trào vẫn tiếp diễn.

8 giải pháp tăng cường đầu tư vào tam nông

20-6-2012

Để tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, theo TS Phùng Đức Tiến- Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi quốc gia, Nhà nước cần tập trung vào 8 nhóm giải pháp sau:

Cánh đồng mẫu lớn giải bài toán tăng thu nhập

18-6-2012

Thu nhập cho lao động nông thôn là bài toán vẫn chưa có lời giải. Chính thu nhập thấp đã tạo ra làn sóng người từ nông thôn ra thành thị khiến áp lực dân cư đô thị tăng chóng mặt, đồng thời tạo ra vòng luẩn quẩn: Khi lực lượng có sức khỏe, trình độ cao đi hết khỏi nông thôn thì thu nhập ở nông thôn càng xuống thấp...

Sẽ tạo cơ hội cho tích tụ ruộng đất

18-6-2012

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang cho biết: Thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm sẽ nâng lên 50 năm, bằng với thời hạn đất trồng cây lâu năm.

Cẩn trọng với người nước ngoài thu mua nông sản

18-6-2012

Lúc đầu họ vào, thu mua nông sản với giá cao làm nông dân có niềm tin để sản xuất nhiều. Nhưng sau một thời gian họ không thu mua nữa, rút ra, khiến nông dân sản xuất ra không có chỗ bán, đành bán rẻ.