TIN TỨC-SỰ KIỆN

Sản xuất, tiêu thụ cây có múi: Chông gai đi tới bền vững

Ngày đăng: 20 | 06 | 2012

Câu chuyện quy hoạch vùng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cây ăn trái nói chung và cây có múi nói riêng đã được đề cập cách nay rất lâu. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện dường như đã trở thành một căn bệnh khó trị và chuyện được mùa mất giá, sản xuất theo phong trào vẫn tiếp diễn.

 
Diện tích và sản lượng cây có múi phát triển khá mạnh trong những năm qua nhưng vẫn còn nhiều chông gai trên con đường tiến tới phát triển bền vững. Trong ảnh là nhân công Công ty Hương Miền Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, Bến Tre đóng gói sản phẩm bưởi da xanh
 
Đó là những nội dung được các nhà chuyên môn đem ra mổ xẻ tại diễn đàn khuyến nông @ nông nghiệp với chủ đề “Phát triển cây có múi bền vững” vừa được tổ chức tại Tiền Giang vào sáng 16/6.
Thực hiện quy hoạch: Căn bệnh khó trị
Ông Lê Thanh Tùng, chuyên viên Cục trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, trong những năm gần đây, sản xuất cây ăn trái ở Nam bộ nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng có bước tăng trưởng khá nhanh, cả về diện tích, cơ cấu cây trồng và sản lượng, trong đó, cây có múi có một đóng góp rất quan trọng vào sự phát triền này.
Theo báo cáo của Cục trồng trọt, khu vực Nam bộ hiện có trên 86.000 héc ta diện tích chuyên canh cây có múi, chiếm trên 18,4% diện tích cây ăn quả của vùng với sản lượng trái hàng năm đạt trên 985.000 tấn, chiếm trên 57% sản lượng trái cây của vùng.
Theo đánh giá của các nhà chuyên môn tham dự diễn đàn, dù diện tích và sản lượng cây có múi đã tăng khá mạnh trong những năm gần đây nhưng chủ yếu do tự phát, chạy đua sản xuất theo phong trào. Ông Lê Thanh Tùng cho biết: “Hiện chúng ta chưa có một vùng chuyên canh cây ăn quả nào đúng nghĩa hết. Chẳng hạn như vùng chuyên canh sầu riêng, xoài cát Hòa Lộc, cam sành hay bưởi năm roi..., có rất nhiều nhưng được trồng xen lẫn giữa cây này với cây khác rất nhiều”.
Ông Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam thì cho rằng, ở mỗi địa phương đều đã có quy hoạch vùng chuyên canh cây ăn trái đặc sản cho riêng mình nhưng việc triển khai thực hiện còn rất đơn điệu mà nguyên nhân thì có rất nhiều, trong đó, có nguyên nhân xuất phát từ chính sách hỗ trợ người nông dân.
“Nông dân ĐBSCL có trình độ và tập quán canh tác cây ăn trái rất tốt, đã có những chính sách quy hoạch cây ăn trái đặc sản chung của vùng và từng địa phương. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện còn nhiều bất cập nên quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún… đó là những nguyên nhân dẫn đến việc sản xuất cây ăn trái nói chung và cây có múi nói riêng ở Nam bộ thiếu ổn định và tiềm ẩn nhiều rủi ro”- ông Tùng khẳng định.
Nhiều đại biểu tham dự diễn đàn đặt vấn đề: “Chẳng lẽ việc thực hiện quy hoạch vùng sản xuất cây ăn trái tập trung đã trở thành căn bệnh bất trị?” và họ yêu cầu các nhà quản lý, các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa về chính sách đầu tư, khuyến khích nông dân tham gia sản xuất cây ăn trái theo hướng tập trung, hàng hóa lớn.
Tạo thương hiệu cho sản phẩm Gap
Ông Lê Thanh Tùng nhấn mạnh: “Trong năm 2011, giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam lần đầu tiên đạt đến con số trên 629 triệu đô la Mỹ, tăng hơn 3 lần so với con số 200 triệu đô la Mỹ đạt được vào năm 2000. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có số liệu nào thống kê rau xuất khẩu được bao nhiêu, trái cây xuất khẩu được bao nhiêu cũng như thị trường nào tiêu thụ loại trái cây nào nhiều”.
Theo ông Tùng, chính vì không có số liệu thống kê nên chúng ta rất khó xác định loại cây ăn trái nào được tiêu thụ mạnh để có chính sách phát triển mà chủ yếu phát triển do tự phát của người nông dân nên tình trạng được mùa, rớt giá thường xuyên xảy ra. 
Bà Võ Mai, Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam cho rằng: “Dù Nhà nước có đưa ra được những công trình, dự án hoành tráng nào đi chăng nữa nhưng đầu ra không có thì chúng ta cũng không được gì. Chuỗi cung ứng hiện nay của chúng ta là chuỗi cung ứng hoàn toàn lạc hậu, nghĩa là người sản xuất không biết gì về thị trường tiêu thụ mà chủ yếu họ bán qua thương lái. Thương lái mua sản phẩm của nông dân (cả sản phẩm sản xuất theo tiêu chuẩn Gap (sản phẩm sản xuất theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt) và bình thường) rồi về trộn chung với nhau, rất là lộn xộn nên giá trị thấp”.
Theo bà Mai, để phân biệt được sản phẩm nào sản xuất theo Gap sản phẩm nào sản xuất bình thường, từ đó giúp người tiêu dùng có sự lựa chọn phù hợp với túi tiền với nhu cầu của họ thì nhất thiết phải xây dựng một thương hiệu cho sản phẩm Gap (được sử dụng chung cho cả nước)”.
Đồng tình với bà Mai, ông Châu cũng thì cho rằng: “Việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm sản xuất theo Gap sẽ giúp cho người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm nào an toàn sản phẩm nào sản xuất bình thường. Đây cũng là cơ sơ để giúp sản phẩm của người nông dân làm ra có giá trị cao hơn”.
Theo Sài Gòn times

NỘI DUNG KHÁC

8 giải pháp tăng cường đầu tư vào tam nông

20-6-2012

Để tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, theo TS Phùng Đức Tiến- Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi quốc gia, Nhà nước cần tập trung vào 8 nhóm giải pháp sau:

Cánh đồng mẫu lớn giải bài toán tăng thu nhập

18-6-2012

Thu nhập cho lao động nông thôn là bài toán vẫn chưa có lời giải. Chính thu nhập thấp đã tạo ra làn sóng người từ nông thôn ra thành thị khiến áp lực dân cư đô thị tăng chóng mặt, đồng thời tạo ra vòng luẩn quẩn: Khi lực lượng có sức khỏe, trình độ cao đi hết khỏi nông thôn thì thu nhập ở nông thôn càng xuống thấp...

Sẽ tạo cơ hội cho tích tụ ruộng đất

18-6-2012

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang cho biết: Thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm sẽ nâng lên 50 năm, bằng với thời hạn đất trồng cây lâu năm.

Cẩn trọng với người nước ngoài thu mua nông sản

18-6-2012

Lúc đầu họ vào, thu mua nông sản với giá cao làm nông dân có niềm tin để sản xuất nhiều. Nhưng sau một thời gian họ không thu mua nữa, rút ra, khiến nông dân sản xuất ra không có chỗ bán, đành bán rẻ.

Đề xuất gói tín dụng 9.000 tỷ đồng cứu ngành chăn nuôi

18-6-2012

Chiều 12-6, ông Nguyễn Thanh Sơn, Phó cục trưởng Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cho biết, cơ quan này đang dự thảo báo cáo, đề nghị lãnh đạo Bộ kiến nghị Chính phủ dành gói tín dụng khoảng 9.000 tỷ đồng để hỗ trợ, cứu ngành chăn nuôi đang gặp khó khăn.

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

14-6-2012

Hội thảo: Khoảng trống trong kiểm soát ATTP hiện nay đối với sản phẩm rau”

Có thể điều chỉnh tiêu chí đánh giá hộ nghèo và vùng nghèo

6-6-2012

Đây là nội dung quan trọng được Bộ trưởng Kế hoạch-Đầu tư nhấn mạnh trong phiên bế mạc Hội nghị CG.

Thiếu mạng lưới dạy nghề cho nông dân

6-6-2012

Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là vấn đề không chỉ nước ta mà nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Ở Việt Nam, gần 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% lao động nông nghiệp, nông thôn, trong đó đa phần có kỹ năng nghề rất thấp; sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính truyền thống. Báo SGGP xin trích đăng bài viết của Tiến sĩ Ngô Quốc Trung (Việt kiều ở Ba Lan) về vấn đề này.

8.000 tỷ đồng cho vay 3 nhóm chính sách

6-6-2012

Sau 9 năm hoạt động (2003-2011), đến nay quy mô vốn của 18 chương trình tín dụng ưu đãi tại Ngân hàng CSXH đạt 115.000 tỷ đồng (khoảng 5 tỷ USD) với 11,4 triệu lượt hộ được vay vốn.

Dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi): thống nhất nhận thức về bản chất hợp tác xã

6-6-2012

Ngày 5-6, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức buổi tọa đàm giữa các chuyên gia, nhà quản lý với đại diện các cơ quan truyền thông về dự thảo Luật Hợp tác xã (HTX) (sửa đổi) nhằm thống nhất nhận thức về bản chất HTX (kiểu mới) và giới thiệu những nội dung chủ yếu của Dự thảo Luật HTX (sửa đổi) cho toàn thể nhân dân.

Thủ tướng ban hành về chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng

6-6-2012

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 24/2012/QĐ-TTg về chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 - 2020.

Tổ chức lại SX nông nghiệp: Cần làm ngay!

6-6-2012

Việc một số người dùng chất tạo nạc trong nuôi lợn, hay khoai lang giảm giá mạnh tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã gióng lên hồi chuông cảnh báo cách làm ăn theo phong trào và không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của người dân. Hơn lúc nào hết, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng vào cuộc giúp bà con tổ chức lại sản xuất.