ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Tăng cường quản lý ô nhiễm chất thải nhựa cho mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển

Ngày đăng: 09 | 01 | 2024

Tăng cường quản lý chất thải nhựa nói chung và rác nhựa đại dương là một trong những nội dung quan trọng nhằm thực hiện Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo số 82/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25/6/2015, Luật BVMT số 27/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2020. Bài báo tập trung rà soát quy định liên quan, bước đầu đánh giá các kết quả đạt được và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý ô nhiễm chất thải làm từ nhựa cho mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

1. Nhựa và phân loại chất thải nhựa

    Nhựa (plastic) là phát minh quan trọng của loài người và có ý nghĩa thực tiễn rất cao trong đời sống và sản xuất do những đặc tính lý hoá vượt trội. Thực tế quá trình sử dụng nhựa trong nền kinh tế hàng hoá đã tạo ra những vấn đề cấp bách về môi trường phát sinh từ lượng thải, vòng đời của nhựa, khả năng phân huỷ đòi hỏi loài người cần có những giải pháp phù hợp để phát huy vai trò dựa trên nâng cao mức độ thân thiện với môi trường, tái sử dụng, tái chế, giảm thiểu, xây dựng các công nghệ xử lý hiệu quả. Chất thải làm từ nhựa ở thể rắn phát sinh do hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt và hoạt động khác nếu không được thu gom và xử lý đúng cách sẽ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cộng đồng dân cư và làm mất mỹ quan.

    Trên thế giới phổ biến phân loại chất thải nhựa ra 3 nhóm dựa vào kích thước bao gồm: Vi nhựa ở dạng mảnh hoặc hạt có kích thước nhỏ hơn 5 mm; Chất thải nhựa cỡ trung có kích thước lớn hơn 5 - 25 mm; Chất thải nhựa cỡ lớn có kích thước lớn hơn 25 mm; năm 1988, Hiệp hội Công nghiệp nhựa Hoa Kỳ (SPI) đã đưa ra hệ thống mã cho các vật liệu nhựa được sử dụng phổ biến trên thế giới và trong nước [4].

2. Quản lý chất thải nhựa, phòng chống ô nhiễm rác nhựa đại dương

    Điều 73, Luật BVMT năm 2020 đã có các quy định chi tiết về nội dung “Giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, phòng, chống ô nhiễm rác thải nhựa đại dương”. Trong đó, nêu rõ không thải bỏ chất thải nhựa trực tiếp vào hệ thống thoát nước, ao, hồ, kênh, rạch, sông và đại dương; Chất thải nhựa phát sinh từ hoạt động du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và tài nguyên khoáng sản biển, nuôi trồng và khai thác thủy sản phải được thu gom, lưu giữ và chuyển giao cho cơ sở có chức năng tái chế và xử lý… Chất thải nhựa phát sinh từ hoạt động kinh tế trên biển phải được thu gom để tái sử dụng, tái chế hoặc xử lý và không được xả thải xuống biển;… khuyến khích nghiên cứu, phát triển hệ thống thu gom và xử lý rác thải nhựa trôi nổi trên biển và đại dương; có chính sách thúc đẩy tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa [1].

    Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20/8/2020 về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 4/12/2019 về việc Ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030; Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 Phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Thời gian qua, Bộ TN&MT cũng đã ban hành Quyết định số 1855/QĐ-BTNMT về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 4/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.     

    Vấn đề quản lý chất thải nhựa nói chung và quản lý rác thải nhựa đại dương, chất thải nhựa biển nói riêng là vấn đề mới, thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà khoa học và cộng đồng cả trong nước và quốc tế. Một số dự án liên quan đã được triển khai thực hiện ở Việt Nam giai đoạn vừa qua như Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 được phê duyệt tại Quyết định số 47/2006/QĐ-TTg ngày 1/3/2006 (gọi tắt là Đề án 47) đã bước đầu định hướng một số nội dung là tiền đề cho quản lý môi trường biển nói chung trong đó có chất thải nhựa đại dương sau này. Các dự án quan trọng khác như “Điều tra, đánh giá, phân loại và xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn thải” theo Quyết định số 906/QĐ-BTNMT của Bộ trưởng Bộ TN&MT ngày 10/4/2020 do Tổng cục Môi trường chủ trì thực hiện; Đề tài Khoa học và Công nghệ độc lập Cấp nhà nước “Nghiên cứu xây dựng công nghệ điều tra, giám sát và bản đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm rác thải nhựa ở biển Việt Nam” do Cục Viễn thám quốc gia chủ trì thực hiện; Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng thực hiện năm 2020 do Viện Nghiên cứu biển và hải đảo chủ trì, thực hiện: “Nghiên cứu đề xuất các nội dung nghiên cứu khoa học và công nghệ về rác thải nhựa đại dương trên vùng biển Việt Nam”... Các dự án trên, cùng với các nghiên cứu trong nước và quốc tế khác về rác thải nhựa biển, chất thải nhựa đại dương đã cung cấp cách nhìn tổng quát, phân tích lý thuyết về khái niệm, vai trò, kinh nghiệm thực hiện trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đó là một nguồn tư liệu thứ cấp quan trọng giúp định hình cách nhìn tổng thể, xây dựng khung chính sách quản lý ở Việt Nam.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách

    Có thể nhận thấy, BVMT, tài nguyên nước, biển và hải đảo đối với hoạt động quản lý rác thải nhựa từ sông ra biển và đề xuất hoàn thiện khung chính sách quản lý ô nhiễm chất thải nhựa từ sông ra biển là vấn đề mới, cần tiếp tục đẩy mạnh phục vụ hoàn thiện khung chính sách tổng thể thông qua rà soát, tổng hợp và so sánh pháp luật trong nước và ngoài nước. Dựa trên kết quả nghiên cứu, rà soát quy định liên quan, có thể bước đầu đề xuất một số giải pháp trọng tâm nhằm tăng cường quản lý ô nhiễm chất thải làm từ nhựa cho mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển ở nước ta như:

    Một là, tiếp tục triển khai tổ chức thực hiện Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo số 82/2015/QH13, Luật BVMT số 27/2020/QH14. Thực hiện tổng kết, đánh giá chi tiết các kết quả đạt được về tăng cường quản lý ô nhiễm chất thải làm từ nhựa cho mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển, sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

    Hai là, cần sớm nghiên cứu xây dựng hồ sơ liên quan để Việt Nam tham gia thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa, xác định đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án Hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 theo Quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 18/5/2020.

    Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về chất thải nhựa nói chung, ô nhiễm chất thải nhựa, đặc biệt là đánh giá vòng đời sản phẩm, nguy cơ ô nhiễm vi nhựa trong các thành phần môi trường, hàng hóa hướng đến triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn, thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) với các sản phẩm, bao bì chứa làm từ nhựa, phòng chống ô nhiễm nhựa cả trên đất liền, trên sông và ra biển.

    Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng các công cụ quản lý môi trường hiện đại, triển khai các mô hình kinh tế chia sẻ trong lĩnh vực chất thải, thử nghiệm tiến hành kiểm toán môi trường trong phát thải ô nhiễm nhựa từ hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, kiểm kê chất thải nhựa từ sông ra biển để có bức tranh tổng thể cho hoạch định các chính sách liên quan, thực thi các cam kết phát thải ròng bằng không (NetZero) của Việt Nam.

    Năm là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cộng đồng dân cư, của  Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong BVMT nói chung và phòng chống ô nhiễm chất thải nhựa từ sông ra biển, đẩy mạnh kinh tế tuần hoàn, phát triển kinh tế biển ở nước ta giai đoạn sắp tới.

Nguyễn Mạnh Tưởng, Phạm Đức Minh

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 12/2023)

Tài liệu tham khảo

1. Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo số 82/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25/6/2015.

2. Luật BVMT, số 27/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2020.

3. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

4. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Thuyết minh Nhiệm vụ “Nghiên cứu rà soát phạm vi điều chỉnh của pháp luật về BVMT, tài nguyên nước, biển và hải đảo đối với hoạt động quản lý rác thải nhựa từ sông ra biển và đề xuất hoàn thiện khung chính sách quản lý ô nhiễm chất thải nhựa từ sông ra biển theo Quyết định số 2339/QĐ-BTNMT ngày 13/9/2022.

NỘI DUNG KHÁC

Hiện trạng axít hóa đại dương và gợi ý chính sách nghiên cứu với Việt Nam

19-2-2024

Đại dương thế giới được xem là một hệ thống tự nhiên hỗ trợ đời sống Trái đất - ngôi nhà chung của loài người. Axít hóa đại dương là quá trình giảm liên tục độ pH của các đại dương trên Trái đất, gây ra do sự hấp thụ CO2 từ khí quyển. Axit hóa đại dương là một vấn đề mang tính toàn cầu và sẽ gây thiệt hại lớn tới môi trường, các hệ sinh thái biển và ngành kinh tế biển, ngăn trở phát triển bền vững nền kinh tế biển của Việt Nam. Vấn đề axít hóa đại dương đã bước đầu được nghiên cứu ở Việt Nam thông qua các chương trình đề tài độc lập, hợp tác quốc tế… [4].

Thực tiễn áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành Khách sạn tại Việt Nam

19-2-2024

   Du lịch - khách sạn là một trong những ngành “công nghiệp không khói”, là “con gà đẻ trứng vàng” với tiềm năng thu lợi nhuận khổng lồ. Trải qua hơn 2 năm đại dịch Covid-19, từ chỗ nhiều khách sạn, nhà hàng buộc phải đóng cửa, địa điểm du lịch không bóng người, thì nay ngành Du lịch - khách sạn đang phục hồi vô cùng mạnh mẽ. 

Tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường trên địa bàn các tỉnh phía Bắc

19-2-2024

 Khu vực phía Bắc là nơi tập trung phát triển nhiều đô thị lớn của cả nước, trong đó có 1 đô thị đặc biệt là TP. Hà Nội. Các vấn đề môi trường nổi cộm tại khu vực đô thị phải kể đến là chất thải rắn (CTR), nước thải và ô nhiễm không khí. Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về môi trường tại đây đã được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, với nhiều biện pháp, giải pháp tích cực, hiệu quả, theo nguyên tắc tiếp  cận “chuyển dần từ bị động sang chủ động”, từ “xử lý khắc phục sự cố sang phòng ngừa sự cố”; từ “tiền kiểm sang hậu kiểm”. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại các nguy cơ về ô nhiễm môi trường, những vướng mắc, bất cập về thể chế và chính sách, sự thiếu hụt về nguồn lực cũng như sự gắn kết giữa các địa phương, giữa địa phương và Trung ương, cần tiếp tục quan tâm giải quyết trong thời gian tới.

Chuyển đổi sang năng lượng xanh - Hướng đi tất yếu tại Việt Nam

19-2-2024

Năng lượng là một trong những lĩnh vực quan trọng mà mỗi quốc gia và cả thế giới đều hướng tới mức an ninh cho từng giai đoạn và định hướng bền vững về lâu về dài. Năng lượng mà chúng ta đang sử dụng chủ yếu có nguồn gốc từ năng lượng mặt trời nên chỉ khi mặt trời không tồn tại nữa thì chúng ta mới hết năng lượng sử dụng. Rất may là các nhà khoa học cho rằng sự tồn tại của mặt trời còn kéo dài khoảng hơn 4 tỷ năm nữa và khả năng cung cấp năng lượng cho Trái đất (khoảng mức như bây giờ) cũng kéo dài khoảng 2 tỷ năm nữa.

Khai thác, xuất khẩu đất hiếm: Làm sao để xứng với tiềm năng?

19-2-2024

Trữ lượng đất hiếm ở Việt Nam ước tính đạt khoảng 22 triệu tấn, đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Trung Quốc. Nhưng những năm qua, việc khai thác và xuất khẩu loại khoáng sản đặc biệt này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.

Tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của ngành Tài nguyên và Môi trường

19-2-2024

 Phát triển bền vững (PTBV) là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của mọi quốc gia. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc (LHQ) về PTBV diễn ra vào tháng 9/2015 ở New York (Mỹ), 193 quốc gia thành viên LHQ đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 với 17 Mục tiêu PTBV (SDGs) như một lộ trình để chấm dứt đói nghèo, chống bất bình đẳng và chống biến đổi khí hậu trong 15 năm tới.

Đẩy mạnh công tác phân loại chất thải rắn sinh hoạt để tối ưu hóa nguồn tài nguyên rác thải

19-2-2024

Trong công tác BVMT, phân loại chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại nguồn là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay. Luật BVMT số 72/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2020 đã đưa ra 6 Điều quy định về quản lý CTRSH, trong đó bao gồm các nội dung: Phân loại, lưu giữ, chuyển giao CTRSH (Điều 75);  Điểm tập kết, trạm trung chuyển CTRSH (Điều 76); Thu gom, vận chuyển CTRSH (Điều 77); Xử lý CTRSH (Điều 78); Chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH (Điều 79); Xử lý ô nhiễm, cải tạo môi trường bãi chôn lấp CTRSH (Điều 80). Các quy định này định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải; thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu CTRSH phát sinh tại nguồn, đồng thời, quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, UBND các cấp, các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong việc quản lý CTRSH.

Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam

19-2-2024

​Thị trường các-bon là công cụ định giá các-bon hữu hiệu hỗ trợ hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Việt Nam đã có kinh nghiệm tham gia thị trường các-bon tự nguyện và đã có lộ trình phát triển thị trường các-bon tuân thủ. Thúc đẩy phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ giúp thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính với chi phí của doanh nghiệp và xã hội thấp, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và góp phần đạt mục tiêu giảm phát thải của quốc gia.

Đề xuất tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm

20-2-2024

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa xin ý kiến Chính phủ về quy định tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm trong dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản.

Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết việc hành nghề khoan nước, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

20-2-2024

Bộ TN&MT đang xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Tư duy chiến lược và tầm nhìn đột phá trong thúc đẩy chuyển đổi xanh ở Việt Nam

21-2-2024

Đạt mức phát thải ròng bằng “0” (Net-Zero) vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới và cũng là “luật chơi” mới về thương mại, đầu tư toàn cầu đã được xác lập kể từ sau Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH) - COP26.

Ứng dụng khoa học công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

22-2-2024

 Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT” đã đề ra giải pháp về khoa học và công nghệ (KH&CN) là “Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KH&CN trong ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT” và nội dung giải pháp này đã được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/1/2014 của Chính phủ.