ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Đẩy mạnh công tác phân loại chất thải rắn sinh hoạt để tối ưu hóa nguồn tài nguyên rác thải

Ngày đăng: 19 | 02 | 2024

Trong công tác BVMT, phân loại chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại nguồn là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay. Luật BVMT số 72/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2020 đã đưa ra 6 Điều quy định về quản lý CTRSH, trong đó bao gồm các nội dung: Phân loại, lưu giữ, chuyển giao CTRSH (Điều 75);  Điểm tập kết, trạm trung chuyển CTRSH (Điều 76); Thu gom, vận chuyển CTRSH (Điều 77); Xử lý CTRSH (Điều 78); Chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH (Điều 79); Xử lý ô nhiễm, cải tạo môi trường bãi chôn lấp CTRSH (Điều 80). Các quy định này định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải; thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu CTRSH phát sinh tại nguồn, đồng thời, quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, UBND các cấp, các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong việc quản lý CTRSH.

 

 

     Phân loại CTRSH phù hợp với tình hình thực tế của địa phương

    Một trong những điểm mới của Luật BVMT năm 2020 là thay đổi cách tiếp cận về quản lý chất thải với quan điểm xuyên suốt là coi chất thải là tài nguyên; thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải, góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam hướng tới mục tiêu đem lại môi trường sống trong lành cho sự phát triển bền vững. Thực hiện Khoản 5 Điều 79 Luật Bảo vệ môi trường, ngày 2/11/2023, Bộ TN&MT đã ban hành Hướng dẫn kỹ thuật về phân loại CTRSH tại Công văn số 9368/BTNMT-KSONMT nhằm hỗ trợ UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu, áp dụng trong quá trình xây dựng, ban hành quy định chi tiết phân loại CTRSH phù hợp theo tình hình thực tế tại từng địa phương.

    Hướng dẫn được xây dựng trên quan điểm bảo đảm phù hợp Luật BVMT 2020, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT, Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/1/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT và các văn bản Luật khác có liên quan, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Hướng dẫn kỹ thuật đưa ra nhận diện tối đa các loại CTRSH phát sinh trong quá trình sinh hoạt để địa phương nghiên cứu, áp dụng đưa vào quy định bảo đảm phù hợp với thực tiễn tại địa phương.

    Tại khoản 7 Điều 75 Luật BVMT quy định: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận động cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại CTRSH. Khuyến khích hộ gia đình, cá nhân ở nông thôn phát sinh CTRSH thực hiện phân loại, lưu giữ và chyển giao CTRSH theo quy định. Cũng tại khoản 2 Điều 79 Luật BVMT quy định trường hợp hộ gia đình, cá nhân không phân loại hoặc phân loại không đúng quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 75 của Luật BVMT thì phải chi trả giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý như đối với CTRSH khác. Với những quy định tại Luật BVMT nêu trên, hộ gia đình cá nhân được lựa chọn giữa việc thực hiện phân loại CTRSH theo quy định hoặc chi trả tiền thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH trong trường hợp không phân loại hoặc phân loại không đúng quy định. Đồng thời, Luật BVMT đã thể hiện tinh thần khuyến khích, không bắt buộc việc thực hiện phân loại CTRSH thông qua việc giao trách nhiệm cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận động cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại CTRSH. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện công tác phân loại CTRSH phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng phục vụ thu gom, vận chuyển, xử lý; công nghệ xử lý đặc thù áp dụng tại từng địa phương trên thực tế.

    Kinh nghiệm quốc tế cho thấy không có quy định chung áp dụng trên cả một quốc gia mà tại mỗi bang, mỗi khu vực khác nhau có các cách thức phân loại khác nhau để bảo đảm hiệu quả của công việc tái chế, xử lý chất thải. Do vậy, Bộ TN&MT đã xây dựng hướng dẫn kỹ thuật phân loại CTRSH với hình thức ban hành là công văn, làm cơ sở để UBND cấp tỉnh nghiên cứu, vận dụng trong quá trình xây dựng, ban hành quy định chi tiết tại địa phương nhằm bảo đảm tính khả thi tại từng địa phương.

Phân loại chất thải để tối ưu hóa nguồn tài nguyên rác thải

    Phân loại CTRSH nhằm tách rác có giá trị tái chế tại nguồn, góp phần tạo nguồn nguyên liệu cho hoạt động tái chế, giảm khối lượng chất thải rắn sinh hoạt được chôn lấp. Theo đó, Hướng dẫn kỹ thuật về phân loại CTRSH đưa ra nhận diện tối đa chủng loại CTRSH phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân và phân loại thành 3 nhóm chất thải chính theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật BVMT gồm: (1) Chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế được chia thành 8 nhóm nhỏ gồm giấy thải; nhựa thải; kim loại thải; thủy tinh thải; vải, đồ da; đồ gỗ; cao su; thiết bị điện, điện tử thải bỏ. (2) Chất thải thực phẩm; (3) CTRSH khác được chia thành 3 nhóm nhỏ gồm chất thải nguy hại; chất thải cồng kềnh; chất thải khác còn lại.

    Đối với chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế như giấy thải, nhựa thải, kim loại thải, thủy tinh thải… cần phải loại bỏ nước, dung dịch chứa bên trong; thực phẩm, sản phẩm chứa đựng ban đầu; thu gọn, ép dẹt, giảm kích thước, thể tích; thu, xếp gọn các vật sắc nhọn để tránh gây thương tích trong quá trình phân loại, thu gom và xử lý. Đối với chất thải là vải, đồ da, đồ gỗ nên tái sử dụng đối với các đồ vật sạch, các vật dụng còn nguyên vẹn; thu gọn, giảm kích thước, thể tích đối với các vật dụng đã bị hư hỏng để tái chế. Đối với thiết bị điện, điện tử thải bỏ như máy ảnh và máy ghi hình; điện thoại di động và điện thoại để bàn; máy tính để bàn và màn hình; tủ lạnh, tủ đông, máy điều hòa… cần giữ nguyên hình dạng, không tháo dời.

    Đối với chất thải thực phẩm như thức ăn thừa; thực phẩm hết hạn sử dụng; các loại rau, củ, quả, trái cây và các phần thải bỏ sau khi sơ chế, chế biến món ăn,…; các sản phẩm bỏ đi từ thịt gia súc, gia cầm; thủy, hải sản bảo đảm được đựng, chứa trong vật đựng, túi, bao bì,…kín, không rò rỉ, ngăn ngừa mùi phát tán;

    Đối với CTRSH khác được chia thành 3 nhóm:

    Nhóm chất thải nguy hại là bao bì đựng thuốc bảo vệ thực vật, axit thải, dung môi thải, kiềm thải… từ hoạt động sinh hoạt; sơn, mực, chất kết dính (loại có các thành phần nguy hại trong nguyên liệu sản xuất); găng tay, giẻ lau dính dầu, hóa chất; kim tiêm, khẩu trang, bông băng bị nhiễm khuẩn từ người bệnh phải bảo đảm được đựng, chứa trong vật đựng, túi, bao bì… để an toàn, tránh phát tán chất thải nguy hại ra ngoài môi trường; thu, xếp gọn các vật sắc nhọn (như kim tiêm) để  tránh gây thương tích trong quá trình phân loại, thu gom và xử lý. Với chất thải là các loại bóng đèn huỳnh quang thải; thủy tinh hoạt tính thải; nhiệt kế chứa thủy ngân thải thì không đập vỡ, trong trường hợp bị vỡ thì lưu giữ bảo đảm an toàn tránh gây thương tích, ngăn ngừa phát tán thủy ngân trong quá trình phân loại, thu gom và xử lý. Đối với các loại pin, ắc quy thải thì phải giữ nguyên hình dạng, không tháo dời.

    Nhóm chất thải cồng kềnh như tủ, bàn ghế, sofa, giường, nệm, cũ hỏng; tủ sắt, khung cửa, cánh cửa… cần được thu gọn, giảm kích thước, thể tích. Trường hợp tháo dỡ thì chất thải sau đó được phân loại vào các nhóm chất thải tương ứng.

    Nhóm chất thải khác còn lại là vỏ các loại hạt, vỏ trứng, xơ dừa, rơm, trấu…từ hoạt động sinh hoạt; chiếu cói; chiếu tre, trúc; gối mây, tre…; lông gia súc, gia cầm…; bã các loại cà phê, trà (túi trà), bã mía, xác mía, lõi ngô (cùi bắp)…; chất thải từ làm vườn từ hộ gia đình như lá, rễ, cành cây nhỏ, cỏ, hoa… cần được thu gọn, giảm kích thước, thể tích. Đối với phân động vật cảnh; xác động vật cảnh chết không do dịch bệnh… cần chứa trong vật đựng  kín, không rò rỉ, ngăn ngừa phát tán mùi. Đối với chất thải là tã, bỉm, băng, giấy vệ sinh, giấy ăn đã sử dụng; các loại hộp xốp; các loại sản phẩm nhựa sử dụng một lần; bã kẹo cao su, đầu lọc thuốc lá…; bóng bay, băng keo dán, tăm bông tai, tăm chỉ kẽ răng; vỏ thuốc… cần phải thu gọn, giảm kích thước, thể tích, bảo đảm tránh rơi vãi.

    Để triển khai quy định việc phân loại CTRSH, Bộ TN&MT có trách nhiệm quy định yêu cầu kỹ thuật về BVMT đối với điểm tập kết, trạm trung chuyển CTRSH (khoản 2 Điều 76); quy định yêu cầu kỹ thuật về BVMT đối với phương tiện vận chuyển CTRSH; ban hành tiêu chí về công nghệ xử lý CTRSH; xây dựng hướng dẫn phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH; quy định định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; hướng dẫn kỹ thuật về phân loại 2 CTRSH; hướng dẫn việc thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 79 Luật BVMT (khoản 5 Điều 79); hướng dẫn đóng bãi chôn lấp CTRSH (khoản 4 Điều 80).

    UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm quyết định việc phân loại cụ thể CTRSH khác theo hướng dẫn của Bộ TN&MT (Khoản 2 Điều 75); bố trí mặt bằng điểm tập kết, trạm trung chuyển CTRSH đáp ứng yêu cầu về BVMT theo quy định của Bộ TN&MT (Khoản 2 Điều 76); lựa chọn cơ sở thu gom, vận chuyển CTRSH (Khoản 1 Điều 77); lựa chọn cơ sở xử lý CTRSH (Khoản 2 Điều 78); quy hoạch, bố trí quỹ đất cho khu xử lý CTRSH, thực hiện việc giao đất kịp thời để triển khai xây dựng và vận hành khu xử lý CTRSH trên địa bàn; bố trí kinh phí cho việc đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thu gom, lưu giữ, trung chuyển, vận chuyển và xử lý CTRSH; hệ thống các công trình, biện pháp, thiết bị công cộng phục vụ quản lý CTRSH trên địa bàn (Khoản 6 Điều 78); quy định chi tiết về quản lý CTRSH của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn; quy định giá cụ thể đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; quy định cụ thể hình thức và mức kinh phí hộ gia đình, cá nhân phải chi trả cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH dựa trên khối lượng hoặc thể tích chất thải đã được phân loại (khoản 6 Điều 79).

    UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu, áp dụng Hướng dẫn kỹ thuật về phân loại CTRSH để xây dựng kế hoạch và triển khai hoạt động phân loại CTRSH phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn bảo đảm phù hợp với các quy định tại Luật BVMT và các văn bản hướng dẫn thực hiện; trong đó lưu ý việc phân loại CTRSH nhằm thúc đẩy tăng cường tái sử dụng, tái chế chất thải, sản phẩm thải bỏ, tận dụng tối đa giá trị, kéo dài vòng đời của sản phẩm, vật liệu; khuyến khích cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia chương trình tái chế, xử lý chất thải của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu theo quy định của Luật BVMT và các văn bản hướng dẫn thực hiện; giảm tối đa lượng chất thải phải xử lý. Việc phân loại CTRSH cần phù hợp với hạ tầng kỹ thuật BVMT, công nghệ xử lý chất thải hiện có; điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; phù hợp với nội dung quản lý chất thải trong các quy hoạch cấp tỉnh, quy hoạch BVMT quốc gia; nguồn lực tài chính của địa phương.

    Bên cạnh đó, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại CTRSH phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân; triển khai thực hiện phân loại CTRSH chậm nhất là ngày 31/12/2024.

Nguyễn Hằng

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 12/2023)

NỘI DUNG KHÁC

Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam

19-2-2024

​Thị trường các-bon là công cụ định giá các-bon hữu hiệu hỗ trợ hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Việt Nam đã có kinh nghiệm tham gia thị trường các-bon tự nguyện và đã có lộ trình phát triển thị trường các-bon tuân thủ. Thúc đẩy phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ giúp thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính với chi phí của doanh nghiệp và xã hội thấp, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và góp phần đạt mục tiêu giảm phát thải của quốc gia.

Đề xuất tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm

20-2-2024

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa xin ý kiến Chính phủ về quy định tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm trong dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản.

Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết việc hành nghề khoan nước, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

20-2-2024

Bộ TN&MT đang xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Tư duy chiến lược và tầm nhìn đột phá trong thúc đẩy chuyển đổi xanh ở Việt Nam

21-2-2024

Đạt mức phát thải ròng bằng “0” (Net-Zero) vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới và cũng là “luật chơi” mới về thương mại, đầu tư toàn cầu đã được xác lập kể từ sau Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH) - COP26.

Ứng dụng khoa học công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

22-2-2024

 Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT” đã đề ra giải pháp về khoa học và công nghệ (KH&CN) là “Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KH&CN trong ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT” và nội dung giải pháp này đã được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/1/2014 của Chính phủ.

Quy hoạch không gian biển quốc gia: Tạo lập cơ sở cho quản lý các hoạt động khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo

23-2-2024

Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.260 km, với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, vùng biển rộng lớn đứng thứ 27 trong 157 quốc gia ven biển và các quốc đảo. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, diện tích biển của nước ta gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm khoảng 30% diện tích Biển Đông. Vùng biển nước ta được công nhận là vùng giàu tài nguyên thiên nhiên, có vị thế kinh tế, địa chính trị và quốc phòng, an ninh quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

Thể chế Nghị quyết số 18-NQ/TW của Đảng, Luật Đất đai (năm 2024) đã được hoàn thiện với nhiều nội dung đổi mới quan trọng

27-2-2024

Ngày 16/6/2022, tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao với 5 quan điểm, 3 mục tiêu, 6 nhóm giải pháp và 8 nhóm chính sách lớn trong hoàn thiện pháp luật về đất đai. Đây là cơ sở chính trị quan trọng, là kim chỉ nam, là chủ trương, định hướng chính sách cơ bản để xây dựng, hoàn thiện Luật Đất đai (sửa đổi) - Luật Đất đai (năm 2024).

Luật Tài nguyên nước 2023: Tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước, huy động nguồn lực và bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước

27-2-2024

   Luật Tài nguyên nước 2023 đã được Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua ngày 27/11/2023, với 468 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm tỷ lệ 94,74% tổng số đại biểu. Đây là bước tiến lớn trong tư duy, cách tiếp cận, thay đổi phương thức quản trị tài nguyên nước trong bối cảnh nguồn nước Việt Nam được đánh giá là “quá thừa, quá thiếu, quá bẩn” và bảo đảm tài nguyên nước được quản lý như tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Đánh giá mức độ phát thải khí nhà kính và đề xuất giải pháp giảm thiểu từ hoạt động canh tác lúa và chăn nuôi tại tỉnh Quảng Ninh

29-2-2024

Gia tăng hàm lượng các khí nhà kính (KNK) trong khí quyển đang góp phần đẩy nhanh tốc độ biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu. Theo kết quả kiểm kê KNK của Việt Nam năm 2016, tổng lượng phát thải trong lĩnh vực nông lâm nghiệp (AFOLU) là 98,6 triệu tấn CO2 quy đổi (viết tắt là CO2e), chiếm khoảng 30% tổng lượng phát thải KNK toàn quốc (khoảng 316,7 triệu tấn CO2e). 

Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và những vấn đề đặt ra

29-2-2024

 Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Đây là những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm tổ chức thực hiện tốt công tác này, nhất là kể từ khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Thúc đẩy thiết kế sinh thái hướng đến kinh tế tuần hoàn

1-3-2024

Với xu hướng tiêu dùng ngày càng tăng, từ năm 2011 - 2021, Việt Nam có tốc độ tiêu thụ năng lượng sơ cấp tăng bình quân 7,2%/năm, trong đó 55,8% là than và khí đốt; thủy điện 16,44%; năng lượng tái tạo là 6,25% (2021). Sự phát triển kinh tế luôn đi kèm với các thách thức về môi trường như quản lý chất thải, cạn kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo. Ước tính có khoảng 3,1 triệu tấn chất thải nhựa được thải ra trên đất liền ở Việt Nam, và ít nhất 10% trong số này đổ ra đại dương mỗi năm. Hầu hết các tác động đến môi trường hiện nay đều liên quan đến một quá trình sản xuất, tiêu dùng sản phẩm nào đó.

Diễn biến môi trường trong bối cảnh bùng phát quy hoạch phát triển và mở rộng Hà Nội 15 - 20 năm qua và đề xuất các giải pháp cải thiện

5-3-2024

Với diện tích gần 3,4 nghìn km2 và dân số gần 9 triệu người, Hà Nội là thành phố (TP) trực thuộc Trung ương đông dân thứ hai cả nước. Trong bài báo này, tác giả chỉ bàn đến ô nhiễm của 3 thành phần môi trường chính: Môi trường không khí, môi trường nước mặt và chất thải rắn (CTR), trong bối cảnh quy hoạch phát triển TP. Hà Nội bùng phát trong thời gian 15-20 năm qua. Đó là những thành phần môi trường quan trọng nhất, có tác động trực tiếp và nguy hiểm đối với sức khỏe cộng đồng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng xấu đến phát triển ngành du lịch, kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế.