ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Cần có một hiệp ước toàn cầu công bằng và mạnh mẽ trong chuỗi giá trị nhựa

Ngày đăng: 18 | 07 | 2024

Hiện nay, ô nhiễm nhựa là một trong những vấn đề xuyên biên giới, ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia với mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng. Rác thải nhựa đã được tìm thấy ở mọi nơi trên thế giới, từ vùng biển sâu nhất đến những ngọn núi xa xôi nhất, ước tính có khoảng 9 - 14 triệu tấn rác thải nhựa đổ ra đại dương mỗi năm, gây tác hại lớn đến động vật hoang dã, hệ sinh thái, đồng thời làm gián đoạn sinh kế của hàng triệu người, gây ra rủi ro đáng kể cho sức khỏe con người và nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, việc sản xuất nhựa cũng góp phần tạo ra một lượng lớn khí nhà kính. Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc ước tính, nếu con người tiếp tục kinh doanh như hiện nay thì đến năm 2040, sản xuất nhựa có thể chiếm 19% tổng lượng khí thải nhà kính trên thế giới. Đây là vấn đề toàn cầu cần có sự cam kết mạnh mẽ và sự phối hợp chung tay của các quốc gia trên thế giới mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được.

Ai trả tiền cho ô nhiễm nhựa?

    Báo cáo “Ai trả tiền cho ô nhiễm nhựa?” của WWF năm 2023 ủy quyền cho Dalberg phát triển đã cảnh báo chi phí thực sự của nhựa đối với môi trường, sức khỏe và nền kinh tế có thể cao hơn gấp 10 lần đối với các nước thu nhập thấp, mặc dù họ tiêu thụ nhựa bình quân đầu người ít hơn gần ba lần so với những người có thu nhập cao. Báo cáo ước tính tổng chi phí trọn đời của chỉ 1 kg nhựa ở các nước có thu nhập thấp và trung bình cao gấp 8 lần so với các nước có thu nhập cao. Đặc biệt, chi phí đối với các nước thu nhập thấp gấp 10 lần so với các nước thu nhập cao.

    Hiện nay, cộng đồng ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình đang phải đối mặt với những tác động tiềm ẩn và có hại nhất của việc sản xuất nhựa và ô nhiễm, bao gồm ô nhiễm không khí, nguy cơ lũ lụt gia tăng, lây lan các bệnh truyền nhiễm, các mối đe dọa đến sinh kế và điều kiện làm việc không an toàn. 93% số ca tử vong liên quan đến sản xuất nhựa toàn cầu xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.

    Việc thiếu các quy tắc trong chuỗi giá trị đã tạo ra sự bất bình đẳng cho các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (LMIC). Bất chấp một số biện pháp quốc gia và tự nguyện, việc thiếu các quy tắc chung toàn cầu để chống ô nhiễm nhựa sẽ ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, chính LMIC, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập thấp (LIC) và các quốc đảo nhỏ đang phát triển (SIDS) đang phải đối mặt với những thách thức. Những thách thức này xuất phát từ sự bất bình đẳng về cấu trúc trong trong chuỗi giá trị nhựa. Báo cáo “Ai trả tiền cho ô nhiễm nhựa?” xác định ba sự bất bình đẳng về cơ cấu quan trọng vừa thúc đẩy hệ thống nhựa hiện tại, vừa thúc đẩy sự bất bình đẳng, cụ thể:

    Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình có rất ít ảnh hưởng đến việc sản xuất và thiết kế các sản phẩm nhựa, nhưng ​​sẽ phải quản lý chúng vào cuối vòng đời sản phẩm. Các LMIC và SIDS không sản xuất nhựa hoặc sản xuất ít nên không ảnh hưởng đến sản xuất nhựa quốc tế. Tính đến năm 2019, chỉ 9% rác thải nhựa toàn cầu được tái chế và khi ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch tăng cường đầu tư vào sản xuất nhựa, giá nhựa nguyên sinh sẽ trở nên cạnh tranh với giá nhựa tái chế. Do đó, khối lượng rác thải nhựa sẽ ngày càng tăng và vấn đề này không thể được giải quyết một cách hiệu quả theo cơ cấu quản lý nhựa manh mún hiện nay. Các quyết định sản xuất phần lớn tập trung vào các quốc gia có nền công nghiệp sản xuất và sản xuất nhựa rộng khắp, phần lớn bắt nguồn từ các công ty công nghiệp đa quốc gia có trụ sở chính tại HIC. Thông thường, các quốc gia này có năng lực kỹ thuật và tài chính để xử lý nhựa theo cách thân thiện với môi trường hoặc đơn giản là xuất khẩu sang các nước khác. Do đó, họ ít phải gánh chịu hậu quả của ô nhiễm nhựa đối với môi trường và con người hơn so với các LMIC và SIDS không sản xuất. Nếu không có bất kỳ quy tắc nào được áp dụng trên toàn cầu, chính phủ các nước LMIC không thể dự đoán cũng như kiểm soát việc thiết kế và sản xuất các mặt hàng nhựa đến thị trường của họ và không có cách gì để buộc các doanh nghiệp bên ngoài biên giới phải chịu trách nhiệm về các giải pháp thượng nguồn. Những sản phẩm nhựa từ bao bì sử dụng một lần đến những sản phẩm có vi nhựa sơ cấp - vẫn tiếp tục được LMIC bán và nhập khẩu, bất chấp nỗ lực cấm của một số chính phủ quốc gia. Kết quả là nhựa có nguy cơ cao và tiếp tục xuất hiện ở các nước LMIC. Các thiết kế và thành phần của nhiều loại nhựa này rất khó quản lý vì quá trình đốt hoặc tái chế có thể giải phóng các hóa chất độc hại như halogen, dioxin và furan.

    LMIC và SIDS có năng lực hạn chế trong việc quản lý khối lượng rác thải nhựa ngày càng tăng. Khi sản xuất và tiêu thụ nhựa toàn cầu tăng tốc, LMIC phải đối mặt với nhiệm vụ là xử lý một khối lượng rác thải nhựa vượt xa khả năng xử lý an toàn của họ. Nhiều phương pháp quản lý chất thải phổ biến ở HIC, như đốt hoặc xuất khẩu chất thải sang các nước khác, đơn giản không phải là giải pháp lâu dài khả thi cho LMIC. Cơ sở hạ tầng quản lý chất thải hạn chế có nghĩa là LMIC phải chịu tỷ lệ rò rỉ chất thải nhựa cao và phụ thuộc nhiều vào các hoạt động không an toàn như đốt và đổ rác ngoài trời. Mặc dù quản lý chất thải thường là hạng mục ngân sách cao nhất đối với các đô thị địa phương ở LMIC, nhưng tỷ lệ quản lý chất thải kém gần gấp đôi mức trung bình toàn cầu. Điều này càng trở nên phức tạp hơn bởi thực tế là nhiều LMIC, đặc biệt là SIDS, còn bị ảnh hưởng nhiều bởi chất thải xuyên quốc gia trôi dạt vào bờ biển của họ, ngoài chất thải được tạo ra tại địa phương hoặc từ nhập khẩu quốc tế. Các khoản đầu tư cần thiết để mở rộng cơ sở hạ tầng quản lý chất thải nhằm đáp ứng làn sóng rác thải nhựa ngày càng tăng mà các nước LMIC phải đối mặt là rất cao, ước tính của OECD lên tới 26 tỷ USD mỗi năm. Trong khi những khó khăn mà các LMIC phải đối mặt để quản lý rác thải nhựa phản ánh nguồn lực hạn chế của họ, thì rõ ràng là gánh nặng ô nhiễm không công bằng mà họ phải đối mặt chỉ có thể được giải quyết thông qua việc giảm lượng rác thải tạo ra, thay vì chỉ tập trung vào việc tăng năng lực quản lý rác thải.

    Thiếu trách nhiệm giải trình về chi phí ô nhiễm nhựa. Hiện nay không có một trách nhiệm giải trình nào trong quá trình sản xuất và không có tầm nhìn chung rõ ràng về chuỗi giá trị nhựa tuần hoàn. Điều này thấy rõ trách nhiệm của các nhà sản xuất lốp xe sau khi sử dụng gây ô nhiễm cho môi trường trên toàn thế giới, đặc biệt là đối với các nhóm và cộng đồng dễ bị tổn thương nhất. Việc không có cơ chế bồi thường thiệt hại từ quá trình sản xuất và buôn bán hàng hóa nhựa độc hại đã gây ra cho môi trường và xã hội, điều này gây tổn hại không tương xứng cho LMIC và SIDS, những quốc gia đang phải đối mặt với chi phí cao hơn nhiều so với khả năng ứng phó với ô nhiễm nhựa của họ.

Sự cần thiết của một hiệp ước toàn cầu công bằng và mạnh mẽ 

    Sự bất bình đẳng này chỉ có thể được giải quyết thông qua một hiệp ước toàn cầu với các nghĩa vụ ràng buộc thực thi các quy định thiết kế toàn cầu nhằm khuyến khích tính tuần hoàn thông qua các tiêu chuẩn thiết kế và sản phẩm nhằm bảo vệ các cộng đồng và hệ sinh thái dễ bị tổn thương khỏi tác động nghiêm trọng của sản xuất nhựa. Để các quy tắc toàn cầu này thực sự có hiệu quả, các LMIC, đặc biệt là LDC và SIDS, phải có tiếng nói trong quá trình ra quyết định. Do đó, hiệp ước phải thiết lập một nền tảng đa phương với sự đại diện đầy đủ trên toàn cầu để đảm bảo đạt được kết quả hiệu quả và công bằng nhất.

    Hiệp ước toàn cầu phải thực thi trách nhiệm giải trình đối với các chủ thể có trách nhiệm và bồi thường cho những tổn hại về môi trường và xã hội gây ra. Trách nhiệm giải trình này có thể được thực thi dưới hình thức thu thuế buôn bán rác thải nhằm hạn chế xuất khẩu rác thải sang các nước LMIC, cũng như phí EPR quy định trách nhiệm tài chính hoặc vật chất đối với việc xử lý hoặc tiêu hủy rác thải cuối vòng đời. Điều này đảm bảo rằng chi phí quản lý rác thải nhựa sẽ được gánh chịu một cách công bằng bởi những người sản xuất và thu lợi nhuận từ nó, thay vì do các LMIC và SIDS không sản xuất gánh chịu. Mặc dù phí EPR đã được triển khai ở nhiều HIC bao gồm Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, nhưng chúng thường không có đầy đủ chức năng ở các LMIC sản xuất nhựa như Trung Quốc và thậm chí còn ít hơn ở các LIC. Cuối cùng, khi áp dụng thuế hoặc phí EPR, điều quan trọng là phải xem xét những tác động kinh tế tiềm tàng của chúng - đặc biệt là giá hàng hóa tăng. Để giảm thiểu điều này, phí phải dành riêng cho các sản phẩm nhựa có hại nhất. Cách tiếp cận có mục tiêu này đảm bảo rằng trách nhiệm được phân bổ hợp lý và không tác động không cân đối đến người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập thấp hơn.

    Một hiệp ước toàn cầu là buộc tất cả các nước phải tuân thủ một tiêu chuẩn hành động chung cao. Điều này sẽ tạo ra một sân chơi bình đẳng nhằm khuyến khích và hỗ trợ các hành động quốc gia. Sức mạnh của việc vượt ra ngoài các kế hoạch quốc gia rời rạc được thể hiện bằng các thỏa thuận môi trường thành công khác. Ví dụ, thông qua các lệnh cấm toàn cầu, Nghị định thư Montreal đã loại bỏ hơn 99% các chất làm suy giảm tầng ozone kể từ khi thành lập, đưa tầng ozone dần dần phục hồi. Một hiệp ước nhựa toàn cầu đầy tham vọng và công bằng sẽ bao gồm các biện pháp hiệu quả trong suốt vòng đời của nhựa. Hiệp ước phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi công bằng và được xây dựng dựa trên tiếng nói của các cộng đồng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi ô nhiễm nhựa. 

    Tóm lại, hiệp ước phải thiết lập các quy tắc chung, ràng buộc và cụ thể mang tính toàn cầu, bao gồm: Các lệnh cấm, loại bỏ và giảm dần trên toàn cầu đối với các sản phẩm và cách sử dụng nhựa có vấn đề và có thể tránh được, cũng như các polyme và hóa chất nhựa đáng lo ngại; Các yêu cầu toàn cầu về thiết kế và hệ thống sản phẩm, đảm bảo nền kinh tế tuần hoàn an toàn và không độc hại, ưu tiên tái sử dụng, cải thiện hoạt động tái chế và đảm bảo quản lý chất thải nhựa thân thiện với môi trường; Các biện pháp hỗ trợ thực hiện mạnh mẽ, bao gồm hỗ trợ tài chính đầy đủ và điều phối các dòng tài chính công và tư nhân để thực hiện ở các nước thu nhập thấp.

Nguyễn Thị Phú Hà

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 2/2024)

Tài liệu tham khảo

1. Kaza, S., Yao, LC, Bhada-Tata, P. & Van Woerden, F. (2018). Thật là lãng phí 2.0: Tổng quan toàn cầu về quản lý chất thải rắn đến năm 2050.

2. Thống kê môi trường của OECD. (2022). Global Plastics Outlook (cơ sở dữ liệu), https://read.oecd-library.org/environment/global-plastics-outlook de747aef-en.

3. Trung tâm luật môi trường quốc tế. (2017). Nhiên liệu nhựa: Khí đốt, dầu giá rẻ và than không cháy đang thúc đẩy sự bùng nổ nhựa như thế nào.

4. Verma, R., Vinoda, KS, Papireddy, M. & Gowda, ANS (2016). Chất ô nhiễm độc hại từ chất thải nhựa - Đánh giá. Quy trình Môi trường Khoa học 35, 701-708

5. WWF (2023) Ai trả tiền cho ô nhiễm nhựa?

6. WWE. (2022) Hướng tới một hiệp ước chấm dứt ô nhiễm nhựa: Hành trình toàn cầu để giải quyết vấn đề toàn cầu.

NỘI DUNG KHÁC

Một số kinh nghiệm về sáng kiến thành phố phát thải các-bon thấp trên thế giới

18-7-2024

 Biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng trở nên khắc nghiệt và là mối quan tâm chung của nhân loại. Vì vậy, năm 2015 được coi là năm bản lề của Liên Hợp Quốc về việc thông qua Hiệp định Paris về BĐKH. Kể từ đó, ngày càng có nhiều quốc gia cam kết chuyển đổi sang nền kinh tế ít các-bon. Tính đến năm 2022, đã có khoảng hơn 1.000 đô thị trên toàn cầu đã thực hiện các bước chuyển đổi để ứng phó với BĐKH, trong đó có mô hình đô thị các-bon thấp. Bài viết chia sẻ kinh nghiệm của các thành phố (TP) và trung tâm đô thị trên thế giới đang nỗ lực giảm lượng khí thải các-bon thông qua bốn hạng mục: Quản trị và Chính sách; Sự tham gia của các bên liên quan; Giải pháp sáng tạo và dựa trên thiên nhiên; Kinh tế tuần hoàn. 

Thỏa thuận Xanh châu Âu và một số giải pháp thích ứng cho Việt Nam

18-7-2024

 Thỏa thuận Xanh châu Âu (EGD) là Chương trình tổng thể và dài hạn của Liên minh châu Âu (EU), nhằm ứng phó với các vấn đề khẩn cấp về khí hậu toàn cầu đến năm 2050. Được thông qua ngày 15/1/2020, EGD định hình chiến lược của EU để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (trung hòa về phát thải) và trở thành khu vực kinh tế sử dụng ít nhất các nguồn lực tự nhiên vào năm 2050. EGD cũng nhằm mục đích bảo vệ, bảo tồn và nâng cao nguồn vốn tự nhiên của EU, đồng thời bảo vệ sức khỏe, hạnh phúc của công dân trước những rủi ro, tác động liên quan đến môi trường.

Xã hội hóa, đa dạng hóa nguồn lực trong phục hồi các dòng sông bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

18-7-2024

Phục hồi các dòng sông bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm đang là một trong những mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay. Các văn bản của Đảng và Chính phủ nhấn mạnh việc cần có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút đầu tư đẩy nhanh việc cải tạo, phục hồi các lưu vực sông bị suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt. Xã hội hóa cũng là một trong 4 chính sách cốt lõi được đề xuất và quan tâm trong quá trình xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Chính sách thúc đẩy phát triển dự án phát điện sử dụng chất thải rắn của các quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

22-7-2024

Các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn (CTR) đang là giải pháp hiệu quả trong việc xử lý CTR và phát triển mạnh tại nhiều nước, tiêu biểu có Thụy Điển, Hoa Kỳ, Hà Lan, Nhật Bản, Singapo, Thái Lan,… Các dự án này vừa tiết kiệm diện tích chôn lấp, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, cung cấp năng lượng điện tái tạo cho xã hội và phù hợp với quốc gia, khu vực có khối lượng CTR phát sinh lớn. Để thúc đẩy phát triển dự án này, các quốc gia trên thế giới đã có chính sách cụ thể về lựa chọn nhà đầu tư, quy hoạch mạng lưới điện, hỗ trợ vốn đầu tư, lựa chọn công nghệ phát điện sử dụng CTR, ưu đãi thuế, có cơ chế hỗ trợ và khuyến khích tiêu thụ điện tái tạo của các dự án một cách cụ thể, tính phí chôn lấp của các bãi rác... Sau đây là kinh nghiệm về chính sách thúc đẩy phát triển các dự án phát điện sử dụng CTR của một số quốc gia và khuyến nghị rút ra cho Việt Nam.

Thực trạng thoái hóa đất và giải pháp phòng chống sa mạc hóa, cải thiện chất lượng đất, thích ứng với biến đổi khí hậu tại Việt Nam

24-7-2024

 Ngày Môi trường thế giới (5/6/2024) và Ngày Quốc tế chống sa mạc hóa và hạn hán (17/6/2024) đều có chủ đề liên quan tới một vấn đề toàn cầu, có ảnh hưởng đến an ninh sinh thái của hành tinh, xóa đói giảm nghèo, ổn định kinh tế - xã hội và phát triển bền vững, đó là “Phục hồi đất, chống hạn hán và sa mạc hoá” và “Chung tay quản lý và sử dụng đất bền vững, di sản của chúng ta - tương lại của chúng ta”. Điều này cho thấy sự quan tâm của nhân loại tới thách thức môi trường được cảnh báo là lớn nhất trong mọi thời đại, tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội, sinh kế, môi trường.

Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất khung nội dung giám sát môi trường biển tích hợp cho Việt Nam

24-7-2024

Biển và đại dương ở nước ta hiện nay được coi là một trong những động lực chính của nền kinh tế. Việc khai thác tài nguyên, môi trường biển đang diễn ra trên khắp cả nước và sẽ là yếu tố đóng góp thiết yếu cho sự phát triển kinh tế, phúc lợi cho con người trong tương lai, trong khi đó tính bền vững của đại dương đang bị đe dọa nghiêm trọng. Ở Việt Nam, việc đo đạc, quan trắc, giám sát để theo dõi hiện trạng và biến động môi trường biển là một trọng tâm trong công tác quản lý môi trường. Qua quá trình thực hiện Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng mạng lưới điều tra cơ bản và giám sát môi trường biển giai đoạn 2020 – 2030, tầm nhìn 2045”, nhóm tác giả đã thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin, kinh nghiệm, các chiến lược và xu hướng xây dựng chương trình giám sát môi trường biển của các quốc gia, tổ chức quốc tế qua đó đề xuất khung nội dung giám sát môi trường biển tích hợp cho Việt Nam.

Chính sách hiện hành và một số đề xuất nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý trong thực hiện nền Kinh tế xanh tại Việt Nam

25-7-2024

Trước diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, kéo theo đó là các tác động tiêu cực lên môi trường, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã và đang coi phát triển Kinh tế xanh (KTX) là bước đi tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa đảm bảo mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, vừa hướng đến phát triển bền vững (PTBV), BVMT và tăng cường khả năng ứng phó với BĐKH, trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, Ðảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, văn bản hướng dẫn triển khai xây dựng nền KTX đảm bảo xuyên suốt, hiệu quả, tuy nhiên, trên thực tế, xu hướng phát triển KTX ở nước ta chỉ đang ở vạch xuất phát điểm, còn thiếu đồng bộ và gặp phải rào cản về nguồn vốn, nhân lực, khoa học và công nghệ... Bài viết khái quát các quy định hiện hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý để thúc đẩy nền KTX ở Việt Nam trong thời gian tới.

Bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam

29-7-2024

Thế kỷ XXI được xem là “Thế kỷ của đại dương”. Kinh tế biển trở thành động lực phát triển đất nước, đóng góp khoảng 3 nghìn tỉ USD mỗi năm, tức 5% GDP của thế giới, bao gồm các ngành chính là dầu khí, vận tải biển, cảng, năng lượng tái tạo, thủy sản, hệ sinh thái biển và du lịch biển. Thời gian qua, Nhà nước, các doanh nghiệp, cộng đồng, các bên liên quan đều nỗ lực trong công tác bảo tồn tài nguyên, môi trường biển nhằm phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.

Vỏ nhựa (plasticrust) và thách thức của ô nhiễm nhựa: Nguyên nhân, hậu quả và các giải pháp phòng ngừa hướng đến bảo vệ môi trường

30-7-2024

 Plasticrust không chỉ là một hiện tượng làm giảm giá trị cảnh quan, mà còn là một mối đe dọa đáng kể cho hệ sinh thái biển, khi những lớp nhựa này có thể trở thành một phần của chuỗi thức ăn và tạo ra hậu quả khó lường. Do đó, nhu cầu bức thiết cập nhật thông tin để biết thêm chi tiết về plasticrust. Bài viết làm sáng tỏ về thực trạng diễn biến, nguyên nhân, hậu quả, các giải pháp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của ô nhiễm nhựa và plasticrust - hướng đến BVMT.

Ao, hồ, đầm Việt Nam nhìn dưới góc nhìn Luật Tài nguyên nước

31-7-2024

  Luật Tài nguyên nước được Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khoá XV thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2023 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024. Theo Luật này, có nhiều các dạng tích tụ nước tự nhiên như: sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, không kể đến lượng nước biển mênh mông, bao la không thuộc đối tượng chi phối bởi Luật này.

Kinh tế xanh và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam

1-8-2024

Trong bối cảnh nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt, những vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu liên tiếp gia tăng và ngày càng trở nên trầm trọng trên toàn cầu, để đạt mục tiêu phát triển bền vững, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã và đang nỗ lực trong việc thúc đẩy thực hiện chiến lược chuyển đổi xanh, phát triển xanh, xây dựng nền kinh tế xanh - một hệ thống kinh tế mà trong đó ưu tiên sự bền vững và bảo vệ môi trường, đồng thời thúc đẩy phúc lợi kinh tế và xã hội. Bài viết tập trung làm rõ khái niệm kinh tế xanh và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam.

Chính sách thuế bất động sản ở Việt Nam: nhận diện bất cập và đề xuất một số giải pháp

2-8-2024

 Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, thuế bất động sản có vai trò quan trọng đối với nguồn thu tài chính của Nhà nước, đồng thời là công cụ góp phần điều tiết thị trường bất động sản. Tuy nhiên, chính sách thuế bất động sản còn có những hạn chế, bất cập. Bằng các phương pháp xử lý, phân tích số liệu, điều tra xã hội học và lấy ý kiến chuyên gia, nghiên cứu đã phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các chính sách về thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản tại Việt Nam, từ đó nhận diện được những tồn tại, hạn chế và đưa ra một số đề xuất về chính sách pháp luật, công nghệ thông tin và kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách thuế bất động sản.