ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Chính sách hiện hành và một số đề xuất nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý trong thực hiện nền Kinh tế xanh tại Việt Nam

Ngày đăng: 25 | 07 | 2024

Trước diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, kéo theo đó là các tác động tiêu cực lên môi trường, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã và đang coi phát triển Kinh tế xanh (KTX) là bước đi tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa đảm bảo mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, vừa hướng đến phát triển bền vững (PTBV), BVMT và tăng cường khả năng ứng phó với BĐKH, trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, Ðảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, văn bản hướng dẫn triển khai xây dựng nền KTX đảm bảo xuyên suốt, hiệu quả, tuy nhiên, trên thực tế, xu hướng phát triển KTX ở nước ta chỉ đang ở vạch xuất phát điểm, còn thiếu đồng bộ và gặp phải rào cản về nguồn vốn, nhân lực, khoa học và công nghệ... Bài viết khái quát các quy định hiện hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý để thúc đẩy nền KTX ở Việt Nam trong thời gian tới.

1. Các khái niệm về KTX

    Khái niệm KTX - Green Economy lần đầu tiên được đề cập trong một báo cáo về PTBV do Chính phủ Anh ủy quyền vào năm 1989, tuy nhiên, chỉ trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối những năm 2000, nền KTX mới được các nước trên thế giới chú ý đến như một chiến lược phục hồi kinh tế. Kể từ đó, khái niệm này dần được mở rộng, với nhiều định nghĩa xuất phát từ góc độ tiếp cận khác nhau nhưng không có một định nghĩa chung thống nhất để áp dụng. Theo Liên minh châu Âu (EU), “KTX là nền kinh tế tăng trưởng thông minh, bền vững và công bằng”; Tổ chức Lao động quốc tế cũng tin rằng, “nền KTX có thể tạo ra hàng triệu cơ hội việc làm cho người lao động” (Ge & Zhi, 2016). Nhóm Liên minh KTX định nghĩa, “KTX là nền kinh tế tạo ra chất lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả mọi người trong giới hạn sinh thái của Trái đất” (Green Economy Coalition, 2012). Xem xét KTX từ góc độ kinh doanh, Phòng Thương mại quốc tế (ICC) nhận định, “KTX là nền kinh tế mà tăng trưởng kinh tế và trách nghiệm môi trường đi đôi với nhau, tương hỗ cho nhau, cùng hỗ trợ quá trình phát triển xã hội”. Theo quan điểm của Ủy hội Kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương Liên hợp quốc (LHQ)  (UNESCAP), “KTX là cách tiếp cận để đạt được tăng trưởng kinh tế với mục đích phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo sự bền vững về môi trường”. Ngân hàng Thế giới (WB, 2012b) đưa ra định nghĩa, “KTX là phát triển kinh tế đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó giảm thiểu ô nhiễm và tác động đến môi trường, tăng cường khả năng phục hồi trước biến đổi tự nhiên, đẩy mạnh vai trò của quản lý nhà nước về môi trường và nguồn lực tự nhiên trong việc ngăn ngừa các thảm họa từ thiên nhiên”. Trong khi đó, định nghĩa của Chương trình Môi trường LHQ (UNEP, 2011) tại cuốn sách Hướng tới nền KTX - Lộ trình cho PTBV và xóa đói giảm nghèo được các học giả trích dẫn nhiều nhất ở Việt Nam cho rằng, “KTX là nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, giảm thiểu đáng kể rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. Nói một cách đơn giản, nền KTX có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên, hướng tới công bằng xã hội”. Theo định nghĩa của UNEP, nội hàm KTX bao gồm phát thải các-bon thấp; sử dụng hiệu quả tài nguyên; bảo đảm công bằng xã hội, hoàn toàn đối lập với nền “kinh tế nâu” (là nền kinh tế dựa vào các nguồn năng lượng hóa thạch, bỏ qua các vấn đề xã hội, suy thoái môi trường và suy giảm tài nguyên thiên nhiên). Đây được coi là định nghĩa chính xác, đầy đủ nhất về KTX.

KTX là xu hướng tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến mục tiêu PTBV    

Thuật ngữ KTX chính thức được cộng đồng quốc tế sử dụng rộng rãi tại Hội nghị Thượng đỉnh của LHQ về PTBV, tổ chức ngày 22/6/2012 ở Rio de Janeiro, Braxin (Rio +20). Trước đó, tính từ “xanh” đã được sử dụng khá nhiều, gắn với nhiều hoạt động hướng tới PTBV như sản xuất xanh, tiêu dùng xanh (TDX), lối sống xanh, sản phẩm xanh... hàm nghĩa chủ yếu là “thân thiện với môi trường”. Tổng hợp các định nghĩa về KTX của nhiều quốc gia trên thế giới, Báo cáo của Ủy ban các vấn đề kinh tế - xã hội của LHQ (UNDESA, 2012) chỉ ra điểm chung mà một nền KTX cần hướng tới là việc giảm thiểu tác động tiêu cực từ hoạt động phát triển kinh tế đến môi trường và xã hội.

2. Vai trò của BVMT trong thực hiện KTX

    Dù tiếp cận theo hướng nào, các quan niệm đều thống nhất nhận định KTX là nền kinh tế phát triển dựa trên sự kết hợp giữa 3 yếu tố: Phát triển kinh tế (thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phát triển năng lượng sạch, đáp ứng nhu cầu việc làm của người dân...); bền vững môi trường (đảm bảo sản xuất, tiêu dùng bền vững, giảm thiểu phát thải các-bon và mức độ suy giảm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ, tái tạo và khuyến khích sử dụng bền vững các hệ sinh thái...); gắn kết xã hội (bảo đảm mục tiêu giảm nghèo, bình đẳng trước các cơ hội mà nền KTX tạo ra, nâng cao chất lượng giáo dục, thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng giới và giảm thiểu bất bình đẳng xã hội...). Điều này có nghĩa KTX là một nền kinh tế cần thiết và mang tính bền vững, các hoạt động trong đó tạo ra lợi nhuận hoặc giá trị có lợi, hướng đến cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng xã hội, vừa bảo đảm tăng trưởng kinh tế, vừa ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt nguồn tài nguyên và suy thoái môi trường. Vì vậy, 3 yếu tố kinh tế, môi trường, xã hội nếu được cân bằng sẽ thỏa mãn tính bền vững của nền KTX, trong đó BVMT, quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với BĐKH là yếu tố quan trọng, quyết định sự phát triển kinh tế, cải thiện chuỗi giá trị, mang lại sự ổn định và thịnh vượng lâu dài, được xem là vấn đề then chốt của KTX.

    Đối với Việt Nam, hướng đến thực hiện nền KTX, TDX theo hướng xanh và bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm, chính sách xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta. Các chủ trương, chính sách, chương trình hành động về TDX được phát triển ở nhiều địa phương trên cả nước, bước đầu đạt kết quả khích lệ, thu hút lượng lớn người dân tham gia, trong đó, TDX là một nội dung trong Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, trong những năm gần đây, người dân ngày càng quan tâm tới tiêu dùng thông minh, bền vững, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 bùng phát, người dân cũng như các nhà đầu tư đã chuyển dần thói quen mua sắm, sản xuất thông qua các kênh TDX, ưu tiên cho bảo vệ sức khoẻ, tái tạo năng lượng. Doanh nghiệp (DN) đã thay đổi chiến lược, chọn hướng kinh doanh “xanh, sạch” làm lợi thế cạnh tranh, nhiều DN đầu tư công nghệ, trang thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế để cải tiến quy trình, hướng tới sản xuất xanh, PTBV; nhiều nhà máy lựa chọn đầu tư lắp đặt các hệ thống năng lượng tái tạo (NLTT) để chủ động sử dụng năng lượng sạch, bên cạnh các giải pháp tiết kiệm năng lượng điện, nước trong quá trình sản xuất. Xu hướng TDX kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch như Bác Tôm, Home Food, Hano Farm… Nhiều cửa hàng thức uống cũng chuyển sang hình thức kinh doanh xanh bằng cách sử dụng ống hút tre, giấy hoặc inox thay cho ống hút nhựa; dùng bình nước bằng thủy tinh, sử dụng cốc giấy thay cốc nhựa, túi vải thay túi ni lông… Một số siêu thị lớn như Co.opmart, Lotte mart, BigC, Aeon… cũng chung tay nỗ lực giảm thiểu sử dụng túi ni lông, hạn chế rác thải nhựa, góp phần BVMT bằng cách sử dụng lá chuối để gói rau củ, thực phẩm; sử dụng, phân phối các sản phẩm bao bì thân thiện với môi trường… Có thể nói, sự dịch chuyển sang cách thức sản xuất xanh, TDX đúng lúc để bắt kịp nhu cầu thị trường chính là cơ sở để DN hướng đến một nền KTX, bền vững, đồng thời, xanh hóa sản xuất cũng là cách thể hiện trách nhiệm của DN đối với cộng đồng - xã hội, nhằm chung tay BVMT và các hệ sinh thái.

3. Chính sách hiện hành về KTX tại Việt Nam

    Tại Việt Nam, KTX là một khái niệm còn mới, nhưng Chính phủ rất quan tâm, chú trọng khuyến khích các DN phát triển theo xu hướng này, nhằm phát triển nền kinh tế quốc gia theo chiều sâu và bền vững, bởi Việt Nam được đánh giá là một trong 5 quốc gia trên thế giới đang chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH và tình trạng nước biển dâng. Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo, nếu không có các biện pháp thích ứng, giảm thiểu phù hợp, BĐKH sẽ khiến Việt Nam mất khoảng 12 - 14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050 và có thể khiến tới 1 triệu người vào tình trạng nghèo cùng cực vào năm 2030 (thông tin tại Hội thảo khoa học quốc tế chủ đề “Mô hình mới về chiến lược chống BĐKH toàn cầu, diễn ra ngày 17/4/2024 do Trường Đại học Đông Á và Viện Công nghệ công nghiệp tiên tiến Nhật Bản (AIIT) phối hợp tổ chức). Cùng với đó, trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đặc biệt, một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; tầm nhìn đến năm 2045, trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại… là những lý do làm gia tăng áp lực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên hiện nay. Chính vì vậy, phát triển KTX là xu thế tất yếu, vừa đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế gắn với BVMT, vừa tăng cường khả năng ứng phó hiệu quả với BĐKH.

    Những năm gần đây, hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển KTX ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, xây dựng, hoàn thiện, nhiều chính sách, pháp luật liên quan đã được ban hành, tiêu biểu như Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về TTX thời kỳ 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2050, đây là chiến lược quốc gia đầu tiên, toàn diện về lĩnh vực phát triển KTX ở Việt Nam. Theo đó, Chính phủ khẳng định “TTX là một nội dung quan trọng của PTBV, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH”. Mục tiêu chung được Chính phủ đặt ra trong Chiến lược là “TTX, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc, quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”.

    Nhận thức được xu hướng tất yếu của phát triển KTX trong PTBV, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định chủ trương “phát triển nhanh, bền vững” và phát triển KTX: “Tiếp tục phát triển nhanh, bền vững đất nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động thích ứng hiệu quả với BĐKH, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; lấy BVMT sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học (ĐDSH) và hệ sinh thái (HST); xây dựng nền KTX, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.

    Bên cạnh đó, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương cũng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch hành động và văn bản chỉ đạo điều hành về phát triển KTX, trong đó phải kể đến các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, như: Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 5/12/2011 phê duyệt Chiến lược quốc gia về BĐKH; Quyết định số 1474/QĐ-TTg ngày 5/10/2012 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH giai đoạn 2012 - 2020; Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 phê duyệt Chiến lược quốc gia về TTX thời kỳ 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 2612/QĐ-TTg ngày 30/12/2013 phê duyệt Chiến lược sử dụng công nghệ sạch giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 phê duyệt Chiến lược phát triển NLTT của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 76/QĐ-TTg ngày 11/1/2016 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất, tiêu dùng bền vững đến năm 2020 (SCP), với các nội dung triển khai nhằm hỗ trợ cơ sở sản xuất, DN áp dụng mô hình quản lý, kinh doanh, sản xuất ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên. Ngoài ra còn phải kể đến Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự PTBV; Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017 phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó BĐKH và TTX giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 280/QĐ-TTg ngày 13/3/2019 phê duyệt Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030... Đặc biệt, ngày 1/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về TTX giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, với mục tiêu tổng quát là TTX góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường, công bằng về xã hội; hướng tới nền KTX, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Chiến lược đặt ra 4 nhóm mục tiêu cụ thể, gồm: (i) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; (ii) Xanh hóa các ngành kinh tế; (iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; (iv) Xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu...

4. Một số đề xuất, kiến nghị

    Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của LHQ về BĐKH (COP 26), Việt Nam cam kết đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng “0”, nâng tỷ lệ NLTT trên 30% trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp và tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 43%. Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng một nền KTX, tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đề ra, điều quan trọng là cần chuyển hóa những cam kết này thành hành động cụ thể, quan trọng nhất là xây dựng được khung pháp lý hoàn chỉnh, minh bạch, rõ ràng, công khai, mang tính bao quát, song cũng đủ mạnh và cụ thể để bảo đảm thực hiện mục tiêu KTX; tạo lập hành lang pháp lý thông thoáng với các chính sách ưu đãi để khuyến khích DN phát triển KTX. Thiết  nghĩ, để phát triển KTX gắn với PTBV đất nước một cách toàn diện, vừa đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm an sinh xã hội, BVMT và HST cho tương lai, việc hoàn thiện hành lang pháp lý về KTX ở Việt Nam cần được xem xét ở một số khía cạnh sau:

    Thứ nhất, cần tiến hành rà soát, đánh giá lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành; việc sử dụng năng lượng, khoa học và công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực… liên quan đến phát triển KTX, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, ứng phó BĐKH, BVMT, hướng đến PTBV để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Bên cạnh đó, hiện nay, các quy định về phát triển KTX của Việt Nam nằm rải rác tại nhiều văn bản mà chưa có một văn bản quy phạm pháp luật chính thức quy định tổng thể, đồng bộ về chính sách phát triển KTX, do vậy các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, đề xuất, tham mưu Chính phủ, Nhà nước ban hành các văn bản quy định về vấn đề này.

    Thứ hai, chính sách về môi trường cần được điều chỉnh, cải cách cho phù hợp với tình hình mới, nhất là hệ thống thuế tài nguyên, thuế môi trường cần tiếp tục được nghiên cứu để điều chỉnh, hoàn thiện, đồng thời, cần đánh giá đúng mức nguy cơ, tác động của ô nhiễm môi trường và việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên thông qua cơ chế như thuế, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phục hồi tài nguyên và HST; thiết lập chính sách hỗ trợ cho các ngành KTX (giảm thuế, ưu đãi vốn, thúc đẩy nghiên cứu và nâng cao trình độ công nghệ, tạo điều kiện cho hoạt động trao đổi kinh nghiệm giữa DN trong nước và quốc tế).

    Thứ ba, Chính phủ cần đầu tư nguồn lực nhiều hơn vào phát triển và ứng dụng công nghệ cao, phát triển năng lượng, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế; đảm bảo sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam không vi phạm các quy định về môi trường, khí hậu. Song song với đó, có chính sách ưu đãi để khuyến khích những DN đang sử dụng công nghệ lạc hậu, không thân thiện với môi trường chuyển đổi sang công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao năng suất sản xuất, tiết kiệm nguyên liệu, đáp ứng tiêu chuẩn của nền KTX. Ngoài ra, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhằm thiết lập cơ sở lý luận, khoa học và thực tiễn để xây dựng cơ chế, chính sách, giải pháp quản lý, đóng góp tích cực vào việc dự báo, phòng ngừa, cải tạo, phục hồi, xử lý ô nhiễm môi trường và bảo tồn ĐDSH, tiến đến nền KTX, bền vững.

    Thứ tư, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về BVMT, từ đó khơi gợi, khuyến khích những hành động thiết thực trong công tác phục hồi HST, bảo tồn ĐDSH, phòng chống BĐKH... ở mỗi người dân, góp phần nâng cao tính hiệu quả của các chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động mà Chính phủ đã đề ra, tiến đến thực hiện hiệu quả nền KTX theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

    Thứ năm, tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới (Mỹ, Singapo, Trung Quốc, Nhật Bản, Đan Mạch, Hàn Quốc...) để chia sẻ kinh nghiệm và tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế trong việc xây dựng hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển KTX. Mặt khác, chú trọng cải thiện môi trường đầu tư, thu hút mọi nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, trong đó tập trung huy động nguồn vốn nước ngoài (không chỉ góp phần phát triển KTX, mà còn giúp DN trong nước học hỏi được kinh nghiệm từ phía DN nước ngoài); tạo điều kiện thuận lợi cho những dự án đầu tư quy mô lớn, hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị... Tuy nhiên, cần xây dựng tiêu chí chặt chẽ để lựa chọn những dự án đầu tư thực sự có hiệu quả trong phát triển KTX, đảm bảo yếu tố BVMT.

5. Kết luận

    Có thể nói, nền KTX vừa nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, ổn định cho xã hội, vừa góp phần giảm thiểu các nguy cơ về môi trường và suy giảm HST. Giữa KTX và PTBV có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó khái niệm KTX ra đời sau, gắn với BĐKH, KTX không chỉ bao gồm mục tiêu kinh tế mà còn mở rộng cả các mục tiêu xã hội và môi trường sinh thái. Thực chất KTX cũng là PTBV, là cách thức thể hiện PTBV trong bối cảnh BĐKH, trong đó nhấn mạnh nhiều tới khía cạnh tài nguyên môi trường. Trong KTX, tài nguyên môi trường được xem là nhân tố có tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế, cải thiện chuỗi giá trị, đem lại sự ổn định và thịnh vượng lâu dài. Bền vững về tài nguyên môi trường, ứng phó với BĐKH được coi là tâm điểm của KTX. Khái niệm KTX không thay thế khái niệm PTBV nhưng nó ngày càng được công nhận là mô hình phù hợp, làm nền tảng cho PTBV, nói cách khác, KTX chính là chiến lược kinh tế để đạt được các mục tiêu PTBV. Với những chủ trương, chính sách và kết quả thực tiễn bước đầu triển khai, kỳ vọng phát triển KTX gắn với PTBV ở Việt Nam sẽ đạt được kết quả như mục tiêu đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 25/10/2022 của Chính phủ về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XIII của Đảng đi vào cuộc sống.

Vũ Văn Bình, Nguyễn Văn Thành

Bộ Khoa học và Công nghệ

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 6/2024)

Tài liệu tham khảo

1. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về TTX thời kỳ 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2050.

2. Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về TTX giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.

3. LHQ (1992), Công ước khung của LHQ về BĐKH.

4.  Nguyễn Thị Lan Anh (2021), “Phát triển KTX ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Công Thương, số 25, tháng 10/2021.

5. Nguyễn Đình Đáp (2022), “Giải pháp thực hiện tăng trưởng xanh”, Tạp chí Ngân hàng bản điện tử.

6. Nguyễn Thị Thanh Thương (2023), “Phát triển KTX ở Việt Nam”, kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Phát triển KTX ở Việt Nam”.

7. TS. Lê Vệ Quốc, Bộ Tư pháp (2024), “Hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển KTX tại Việt Nam”, tham luận tại Diễn đàn “DN Việt Nam: Đẩy mạnh phát triển KTX”.

NỘI DUNG KHÁC

Bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam

29-7-2024

Thế kỷ XXI được xem là “Thế kỷ của đại dương”. Kinh tế biển trở thành động lực phát triển đất nước, đóng góp khoảng 3 nghìn tỉ USD mỗi năm, tức 5% GDP của thế giới, bao gồm các ngành chính là dầu khí, vận tải biển, cảng, năng lượng tái tạo, thủy sản, hệ sinh thái biển và du lịch biển. Thời gian qua, Nhà nước, các doanh nghiệp, cộng đồng, các bên liên quan đều nỗ lực trong công tác bảo tồn tài nguyên, môi trường biển nhằm phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.

Vỏ nhựa (plasticrust) và thách thức của ô nhiễm nhựa: Nguyên nhân, hậu quả và các giải pháp phòng ngừa hướng đến bảo vệ môi trường

30-7-2024

 Plasticrust không chỉ là một hiện tượng làm giảm giá trị cảnh quan, mà còn là một mối đe dọa đáng kể cho hệ sinh thái biển, khi những lớp nhựa này có thể trở thành một phần của chuỗi thức ăn và tạo ra hậu quả khó lường. Do đó, nhu cầu bức thiết cập nhật thông tin để biết thêm chi tiết về plasticrust. Bài viết làm sáng tỏ về thực trạng diễn biến, nguyên nhân, hậu quả, các giải pháp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của ô nhiễm nhựa và plasticrust - hướng đến BVMT.

Ao, hồ, đầm Việt Nam nhìn dưới góc nhìn Luật Tài nguyên nước

31-7-2024

  Luật Tài nguyên nước được Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khoá XV thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2023 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024. Theo Luật này, có nhiều các dạng tích tụ nước tự nhiên như: sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, không kể đến lượng nước biển mênh mông, bao la không thuộc đối tượng chi phối bởi Luật này.

Kinh tế xanh và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam

1-8-2024

Trong bối cảnh nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt, những vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu liên tiếp gia tăng và ngày càng trở nên trầm trọng trên toàn cầu, để đạt mục tiêu phát triển bền vững, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã và đang nỗ lực trong việc thúc đẩy thực hiện chiến lược chuyển đổi xanh, phát triển xanh, xây dựng nền kinh tế xanh - một hệ thống kinh tế mà trong đó ưu tiên sự bền vững và bảo vệ môi trường, đồng thời thúc đẩy phúc lợi kinh tế và xã hội. Bài viết tập trung làm rõ khái niệm kinh tế xanh và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam.

Chính sách thuế bất động sản ở Việt Nam: nhận diện bất cập và đề xuất một số giải pháp

2-8-2024

 Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, thuế bất động sản có vai trò quan trọng đối với nguồn thu tài chính của Nhà nước, đồng thời là công cụ góp phần điều tiết thị trường bất động sản. Tuy nhiên, chính sách thuế bất động sản còn có những hạn chế, bất cập. Bằng các phương pháp xử lý, phân tích số liệu, điều tra xã hội học và lấy ý kiến chuyên gia, nghiên cứu đã phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các chính sách về thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản tại Việt Nam, từ đó nhận diện được những tồn tại, hạn chế và đưa ra một số đề xuất về chính sách pháp luật, công nghệ thông tin và kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách thuế bất động sản.

Tác động của trí tuệ nhân tạo tới ngành Quản lý bất động sản

5-8-2024

Trí tuệ nhân tạo đang được ứng dụng mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội như tài chính - ngân hàng, y tế, nông nghiệp... trong đó có quản lý bất động sản. Ngành Bất động sản đang có sự phát triển nhanh chóng tại Việt Nam, tuy nhiên tính hiệu quả và năng lực cạnh tranh còn nhiều bất cập. Trong nghiên cứu này, tác giả phân tích vai trò, cơ hội và lợi ích của việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý bất động sản. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích thực trạng và đề xuất kiến nghị giải pháp nhằm đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý bất động sản tại Việt Nam.

Kiến trúc tham chiếu chuyên ngành đa dạng sinh học trong hệ thống thông tin lĩnh vực môi trường

6-8-2024

Theo quy định của pháp luật bảo vệ môi trường (BVMT), hệ thống thông tin (HTTT), cơ sở dữ liệu (CSDL) môi trường được xây dựng và vận hành theo phân cấp quản lý từ quốc gia, bộ ngành và cấp tỉnh, bảo đảm tính thống nhất và có khả năng kết nối, chia sẻ, liên thông giữa các hệ thống, tuân thủ Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam, phiên bản 3.0, hướng tới Chính phủ số. Chính vì vậy, để triển khai xây dựng HTTT, CSDL môi trường các cấp đáp ứng các quy định hiện hành, nghiên cứu đề xuất áp dụng Kiến trúc tham chiếu nhằm cung cấp một mô hình để phát triển các tiêu chuẩn hệ thống, thông tin dịch vụ và công nghệ phù hợp với toàn ngành môi trường từ Trung ương đến địa phương.

Tăng trưởng xanh hướng đến phát triển bền vững tại Việt Nam

7-8-2024

Là một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh chóng trong khu vực, cũng là một trong 47 quốc gia tuân thủ tuyên bố về tăng trưởng xanh của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 2009, Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong diễn đàn về tăng trưởng xanh toàn cầu. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế xanh, mới đây nhất phải kể đến Bộ chỉ tiêu thống kê tăng trưởng xanh, một công cụ quan trọng nhằm hướng đến chiến lược phát triển bền vững. Việt Nam cũng đã đạt được một số những thành tựu đáng kể về tăng trưởng xanh, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn cần phải giải quyết. Bài viết này tìm hiểu khái niệm về “tăng trưởng xanh”, Bộ chỉ tiêu đo lường tăng trưởng xanh, các thành tựu đã đạt được cũng như khó khăn phải đối mặt, từ đó đưa ra khuyến nghị đóng góp vào quá trình tăng trưởng xanh hướng đến kinh tế xanh và phát triển bền vững tại Việt Nam.

Kinh tế tuần hoàn - xu thế khởi nghiệp và kinh doanh bền vững

9-8-2024

Kinh tế tuần hoàn được đánh giá là sẽ tạo tác động xã hội và mang lại các lợi ích kinh tế, kinh doanh bền vững cho doanh nghiệp. Theo đó, khái niệm “Kinh tế tuần hoàn” được hiểu là một mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường.

Bảo vệ cỏ biển thông qua chi trả cho dịch vụ hệ sinh thái

9-8-2024

Bảo tồn thảm cỏ biển là rất quan trọng để duy trì hệ sinh thái ven biển lành mạnh, bao gồm cả việc duy trì nghề cá hiệu quả. Là môi trường sống “Các-bon xanh”, đây là nơi lưu trữ các-bon quan trọng và việc duy trì các thảm cỏ biển khỏe mạnh sẽ góp phần tăng cường cô lập các-bon và ngăn chặn khả năng thải các-bon đi-ô-xít vào khí quyển. 

Kinh nghiệm thế giới về chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa sang các mục đích sử dụng đất khác và bài học cho Việt Nam

12-8-2024

Bài viết tập trung vào việc chuyển đổi đất trồng lúa sang đất sử dụng cho các mục đích nông nghiệp khác và mục đích phi nông nghiệp tại một số nước trên thế giới, nhằm cung cấp cơ sở thực tiễn tại các quốc gia về động lực và hệ quả từ chuyển đổi đất trồng lúa, qua đó rút ra một số bài học liên hệ với Việt Nam để thực hiện mục tiêu hài hòa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội, môi trường và đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia.

Khung chính sách, pháp luật về năng lượng tái tạo của Cộng hòa Liên bang Đức và hàm ý chính sách cho Việt Nam

13-8-2024

 Tại COP 26, Việt Nam đã cam kết sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác, hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam xác định một trong những giải pháp hữu hiệu cần thực hiện là phát triển năng lượng tái tạo (NLTT), từng bước giảm bớt năng lượng hóa thạch truyền thống, hướng tới giảm lượng phát thải CO2.