Vừa xài, vừa phá
Tiến sĩ Dương Văn Ni, Giám đốc Trung tâm thực nghiệm đa dạng sinh học Hòa An (Đại học Cần Thơ) - nói rằng ông rất đau lòng mỗi khi đi xuống vùng Cà Mau, Bạc Liêu, thấy nhiều người dân bơm nước ngọt từ giếng lên để pha vào vuông tôm làm giảm độ mặn.
“Quá phung phí. Thiếu gì cách để có nước đúng độ mặn nuôi tôm, sao lại lấy nước ngầm?”, ông than thở. Cũng theo ông Ni, hiện nhiều người cứ nghĩ nguồn nước ngầm là vô tận, nên cứ giếng này không còn sử dụng được là bỏ, khoan giếng khác.
Thậm chí tại một số khu quy hoạch, người dân còn vô tư khoan giếng dù chẳng có nhu cầu, chỉ để chờ... được đền bù. “Họ không nghĩ rằng chính những cái giếng bỏ không ấy sẽ là nơi dẫn nguồn nước ô nhiễm từ mặt đất xuống, phá nát mạch nước bên dưới”- ông Ni nói.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT), hiện ở ĐBSCL có hàng chục ngàn giếng khai thác nước ngầm với quy mô, chiều sâu khác nhau để sử dụng trong sinh hoạt. Hầu hết các thành phố, thị xã khai thác nước ở các tầng chứa ở độ sâu từ trên 100 đến 300 mét để cấp nước, thậm chí có một số đô thị ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau sử dụng 100% là nước ngầm.
Còn tại Trà Vinh, Cà Mau, Kiên Giang... người dân khai thác nước ở độ sâu từ 90-120 mét để... nuôi trồng thủy sản, trong đó riêng Bến Tre đã có khoảng 1.070 giếng. Ước tính, tổng lượng nước ngầm khai thác toàn vùng trên dưới 1 triệu mét khối/ngày.
Tiến sĩ Võ Thành Danh, Phó khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh (Đại học Cần Thơ), người vừa có đề tài nghiên cứu khoa học về nước ngầm ở ĐBSCL, cho biết: “Người dân hiện đang có khuynh hướng chuyển sang dùng nước ngầm nhiều, khi mà nguồn nước mặt ngày càng ô nhiễm. Có người còn sẵn sàng trả tiền để được nguồn nước ngầm chất lượng tốt sử dụng”.
Trong khi đó, Bộ TN-MT thừa nhận, hiện việc nghiên cứu, đánh giá trữ lượng các tầng chứa nước - đặc biệt là các tầng sâu bên dưới - còn rất hạn chế. Tài liệu, số liệu điều tra vừa không đồng bộ, vừa thiếu chính xác. Chính vì thế, số liệu về trữ lượng có thể khai thác tối đa hằng ngày, hằng năm là bao nhiêu để không ảnh hưởng nguồn tài nguyên, là điều chưa ai trả lời được.
Mất cả triệu năm để khôi phục
Cũng theo ông Danh, các tầng nước ngầm được hình thành từ rất lâu, gắn kết với lịch sử sa bồi và định hình vùng đất ĐBSCL. Nếu không có giải pháp tốt để quản lý việc khai thác, thì không lâu nữa nhiều túi nước sẽ không thể sử dụng được và phải mất rất lâu, có thể cả triệu năm, mới hồi phục được. Thực tế lượng nước ngầm có thể tự tái tạo, bổ sung bằng nước mưa, nước sông... nhưng chất lượng nước thì khó “hồi phục”.
Ông Danh dẫn chứng, nhiều vùng tại huyện Long Mỹ (Hậu Giang), cách đây khoảng 5 năm người dân vẫn có thể sử dụng được nước ngầm, nhưng nay đành phải vận chuyển nước từ nơi khác về do nước bên dưới bị nhiễm mặn. Còn tại Cà Mau, vào mùa khô thì tầng có chứa nước đã tụt xuống từ 5-7 mét.
“Càng khai thác, các túi nước càng cạn, khô và tạo thành các dòng chảy thông nhau giữa các túi. Khi đó, nếu một túi nước nào đó bị ô nhiễm hoặc nhiễm mặn thì sẽ lây sang nhiều túi khác và người dân không thể sử dụng”, ông Danh nói.
Ông Khưu Lễ, Phó giám đốc Sở TN-MT Bạc Liêu, cho biết: Toàn tỉnh Bạc Liêu hiện có hơn 98.000 cây nước (giếng nước ngầm), trong đó có hơn 1.700 cây nước bị hư hỏng không thể sử dụng được. Phần lớn các cây nước bị hư hỏng tập trung ở khu vực ven biển, bởi khu vực này có độ mặn rất cao nên những cây nước bằng sắt mau bị gỉ sét, bào mòn dẫn đến bể ống.
Việc sử dụng nguồn nước ngầm phục vụ nuôi tôm khá phổ biến như hiện nay dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngầm. Theo ông Lễ, trước đây khoan cây nước ở độ sâu từ 60-70m là có mạch nước ngầm, còn hiện nay mạch nước đã tụt sâu từ 100-120m.
Hồ Phú - Trần Thanh Phong