PV: Xin ông cho biết thực trạng của việc cấp nước sinh hoạt ở tỉnh Bình Định?
- Trong những năm qua, bằng các nguồn vốn khác nhau tỉnh ta đã xây dựng 112 công trình cấp nước tập trung (CTCNTT), hàng trăm ngàn giếng khoan, giếng đào và nhiều công trình cung cấp nước tự chảy. Đến nay, các công trình đã cung cấp nước sinh hoạt cho 960.839 người dân ở khu vực nông thôn, chiếm 72% tổng số dân ở khu vực này. Hầu hết các công trình cấp nước sinh hoạt đều do các địa phương quản lý và khai thác. Nhìn chung các công trình đạt chất lượng tốt, bảo đảm các quy định hiện hành đã phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, có một số công trình khai thác kém hiệu quả, khâu quản lý vận hành không đáp ứng được yêu cầu cấp nước cho nhân dân trong vùng dự án...
PV: Chúng tôi được biết, các công trình cung cấp nước sạch ở các địa phương chưa phát huy hết công suất, chất lượng nước sạch chưa đảm bảo yêu cầu? Vì sao vậy, thưa ông?
- Hiện các công trình nước sạch do các địa phương quản lý, khai thác mới chỉ phát huy 50% công suất thiết kế, bởi chính quyền và người dân nhiều địa phương chưa lắp đặt hệ thống đường ống dẫn nước từ các cụm vòi chính của công trình về nhà. Điều đáng lo ngại là việc quản lý, điều hành các công trình cấp nước sạch ở các địa phương chưa đảm bảo yêu cầu. Qua kiểm tra công tác quản lý, bảo vệ, vận hành 47 CTCNTT và lấy mẫu nước để kiểm tra chất lượng nước từ các công trình này cho thấy, khu vực khai thác nguồn nước (giếng khoan, suối, hồ…) của các công trình không được bảo vệ, nguy cơ ô nhiễm nguồn nước là rất cao.
Bên cạnh đó, công tác vệ sinh bể lọc nước tại cụm đầu mối công trình cũng không được quan tâm, trong số 35/47 công trình có hệ thống bể lọc nước nhưng chỉ có 13 bể lọc đảm bảo vệ sinh. Khâu xử lý, khử trùng nước để điều chỉnh, cân đối các thành phần vô cơ, vi sinh vật và tiêu diệt vi khuẩn trong nước là rất quan trọng, nhưng nhiều địa phương không thực hiện công đoạn này. Chúng tôi đã kiểm tra, xét nghiệm mẫu nước tại 12 CTCNTT có công nghệ xử lý hoàn chỉnh, nhưng chỉ có 3 công trình nước máy đảm bảo tiêu chuẩn sạch... Ngoài ra, trong số 35 công trình có công nghệ xử lý thành phần vô cơ (mùi vị, độ PH, clorua, sắt, thạch tín...) cũng chỉ có 11 công trình đạt yêu cầu.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ kỹ thuật, chuyên môn của cán bộ tổ quản lý vận hành công trình cấp nước ở các địa phương còn hạn chế, họ không biết hoặc biết nhưng vận hành công trình không đúng quy trình. Việc kiểm tra, giám sát, duy tu bảo dưỡng công trình, xử lý nguồn nước cũng chưa được chính quyền các địa phương quan tâm, nhiều hạng mục công trình bị hư hỏng, nhưng không được sửa chữa, thay thế kịp thời… Do đó, nguồn nước cấp cho dân sử dụng không đảm bảo tiêu chuẩn như thời điểm công trình mới đưa vào sử dụng.
PV: Vậy phải làm như thế nào để đảm bảo được mục tiêu đến năm 2010, có 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt?
- Tỉnh Bình Định đề ra mục tiêu đến năm 2010, sẽ có khoảng 85% dân số nông thôn trên địa bàn tỉnh được sử dụng nước sinh hoạt từ các CTCNTT. Để đảm bảo mục tiêu này, giai đoạn 2009-2010 tỉnh sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng nhiều CTCNTT quy mô lớn. Trong đó đáng chú ý là dự án cấp nước sinh hoạt khu Đông huyện Tuy Phước và Đông Nam huyện Phù Cát; dự án cấp nước xã Tây Giang (Tây Sơn); dự án cấp nước Đông Nam huyện Hoài Nhơn... Đồng thời nâng cấp, mở rộng mạng lưới cấp nước các công trình đã xây dựng. Bên cạnh đó, tỉnh còn tạo điều kiện thuận lợi cho người dân vay vốn ưu đãi để lắp đặt đường ống dẫn nước từ các cụm vòi chính của công trình về nhà.
Mặt khác, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn sẽ hỗ trợ, giúp đỡ các địa phương khắc phục những khó khăn, hạn chế trong công tác quản lý CTCNTT, để công trình phát huy công suất. Trung tâm cũng đã tham mưu Sở NN&PTNT đề nghị UBND tỉnh cho chủ trương giao nhiệm vụ cho Trung tâm quản lý, khai thác một số CTCNTT do Sở NN&PTNT làm chủ đầu tư để việc quản lý, khai thác công trình nước sạch được tốt hơn, hiệu quả hơn. Với các hoạt động nói trên, tôi tin rằng đến năm 2010 tỉnh ta sẽ đảm bảo được mục tiêu đã đề ra.
Phạm Tiến Sỹ