TIN TỨC-SỰ KIỆN

Cùng góp sức đổi mới chính sách cải cách quản lý khoa học

Ngày đăng: 15 | 12 | 2006

Nguyên nhân giảm sút vai trò của KHCN trong sản xuất nông nghiệp trước hết là do đầu tư ít ỏi cho lĩnh vực này. Trong giai đoạn trước đây, tỷ lệ đầu tư công cho nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp của Việt Nam chỉ chiếm 0.12% trong GDP nông nghiệp trong khi tỷ lệ này ở Trung Quốc là: 0,43%, Thái Lan: Thái Lan: 1,40% ; Indonesia: 0,27%; Malaysia: 1,06%; Trung bình các nước châu Á: 0,58%.

Đầu tư ít nên 60-70% kinh phí chủ yếu là dành cho trả lương, số tiền đầu tư cho trực tiếp nghiên cứu là không đáng kể, mà phần lớn là để trả lương cho 6000-7000 cán bộ ngành nông nghiệp. Thiếu tiền đầu tư nên trang bị, cơ sở hạ tầng của các cơ quan nghiên cứu xuống cấp 1 cách thê thảm

Nói về thành công của 20 năm đổi mới nông nghiệp nông thôn, mọi người đều nhất trí về vai trò quyết định của các chính sách hợp lòng dân, hợp quy luật của Nhà nước. Nhưng yếu tố vật chất tạo nên sức bật mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp chính là lao động, nội lực của nhân dân cộng với tiềm năng về tài nguyên và khoa học công nghệ vốn chưa được khai thác. Cuộc “cách mạng xanh” đã bắt đầu ở Châu Á từ cuối thập kỷ 60 với sự ra đời của giống lúa IR8, tuy nhiên với cơ chế quản lý lạc hậu của Hợp tác xã (HTX) đã kìm hãm sự phát triển của năng suất lúa ở Việt Nam trong suốt hàng chục năm. Chỉ đến sau khoán 10 và Chỉ thị 100, năng suất lúa của miền Bắc và toàn quốc mới tăng trở lại. Sự cởi trói về chính sách cộng với đổi mới khoa học công nghệ (KHCN) đã đóng góp phần lớn vào sự tăng trưởng đột biến của sản xuất lương thực trong giai đoạn đầu đổi mới.

Đáng tiếc là, sau khi khai thác hết hiệu quả của KHCN giai đoạn đầu, hiệu quả đóng góp của KHCN trong tăng trưởng sản xuất nông nghiệp giảm dần đi một nửa trong giai đoạn từ 1991 đến 1995 đến còn 1/3 trong giai đoạn từ 1996 đến 2000.
Nguyên nhân giảm sút vai trò của KHCN trong sản xuất nông nghiệp trước hết là do đầu tư ít ỏi cho lĩnh vực này. Trong giai đoạn trước đây, tỷ lệ đầu tư công cho nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp của Việt Nam chỉ chiếm 0.12% trong GDP nông nghiệp trong khi tỷ lệ này ở Trung Quốc là: 0,43%, Thái Lan: Thái Lan: 1,40% ; Indonesia: 0,27%; Malaysia: 1,06%; Trung bình các nước châu Á: 0,58%. Đầu tư ít nên 60-70% kinh phí chủ yếu là dành cho trả lương, số tiền đầu tư cho trực tiếp nghiên cứu là không đáng kể, mà phần lớn là để trả lương cho 6000-7000 cán bộ ngành nông nghiệp. Thiếu tiền đầu tư nên trang bị, cơ sở hạ tầng của các cơ quan nghiên cứu xuống cấp 1 cách thê thảm. Cán bộ không yên tâm công tác, người giỏi bỏ đi, người ở lại lo làm thêm kiếm tiền.
Một yếu kém khác của hệ thống nghiên cứu khoa học nông nghiệp của Việt Nam là tình trạng bất cập về tổ chức hệ thống. Bộ Nông nghiệp và PTNT được nhập lại từ 7 bộ khác nhau, trong khi các cơ quan quản lý nhà nước liên tục thay đổi và hợp nhất thì hệ thống các viện nghiên cứu gần như giữ nguyên trạng, nhất là các cơ quan nghiên cứu nông nghiệp. Cho đến cuối năm 2004, Bộ có gần 30 viện và trung tâm nghiên cứu trực thuộc với 5000 nghìn cán bộ nghiên cứu. Lớn nhất trong tất cả các bộ ngành. Quân đông nhưng không tinh, cơ quan nhiều nhưng không chuyên. Kéo dài tình trạng chồng lấn, bỏ trống lĩnh vực và địa bàn nghiên cứu, kinh phí đã ít lại phải chia đều, chủ yếu nhằm nuôi nhau hơn là đầu tư tìm ra các phát kiến khoa học mới
Khắc phục tình trạng yếu kém trên, Nhà nước và Bộ đã kiên quyết tăng đầu tư cho nghiên cứu và sắp xếp lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu của ngành. Về kinh phí, trong 3 năm qua, kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học của Bộ đã tăng từ 162,3 tỉ năm 2001 lên 197,5 tỉ năm 2003. Nhờ đó, một đề tài cấp Bộ, đề tài cơ sở đã có qui mô kinh phí tăng gấp 4-5 lần trước đây. Tháng 4 năm 2003, Chính phủ đã ký thoả thuận với Ngân hàng châu Á vay một khoản tiền là 60 triệu USD cho chương trình phát triển ngành nông nghiệp, trong đó có dành một phần để đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho 19 cơ quan nghiên cứu của ngành. Trong giai đoạn 2007-2011, một khoản đầu tư 40 triệu USD khác cũng đang được Chính phủ và ADB chuẩn bị để tăng cường năng lực cho hệ thống khoa học công nghệ bằng đầu tư trang thiết bị và đào tạo cán bộ.
Về tổ chức bộ máy, thực hiện quyết định số, ngày, về việc của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tiến hành sắp xếp lại hệ thống các viện nghiên cứu trồng trọt, nhập 10 đơn vị vào Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam (VASS). Theo tiến độ đã trình Chính phủ, đến năm 2008, Bộ sẽ quản lý trực tiếp 6 viện nghiên cứu là: Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Viện Chăn nuôi và Thú y, Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch. Bên cạnh đó, Bộ cũng thành lập một số viện vùng trực thuộc VASS để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng phục vũ cho các vùng sinh thái chính. Song song với quá trình này, Trung tâm Khuyến nông QG cũng được thành lập, tập trung vào hoạt động dịch vụ công, tách ra khỏi hệ thống các cục quản lý nhà nước
Rõ ràng, trong 3 vấn đề: tăng kinh phí, tái tổ chức và cải tiến cơ chế quản lý thì việc thứ 3 là khó khăn nhất. Đòi hỏi thời gian, tài nguyên, quyết tâm và sáng tạo của toàn bộ hệ thống bởi vì những khó khăn về quản lý khoa học là thử thách rất lớn. Mặc dù đề án đổi mới cơ chế quản lý KHCN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 9/2004 và đề án phát triển thị trường KHCN đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua từ tháng 8/2005, Nghị định quy định cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN đã được thông qua từ tháng 9/2005 nhưng cho đến nay, một số văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành, việc triển khai chung khá chậm.
Sau đây là một số khía cạnh của vấn đề đó:
Từ rất lâu nay, cán bộ nghiên cứu đã phản ứng gay gắt về cơ chế quản lý tài chính trong khoa học. Hình thức quản lý về tài chính rất chặt chẽ với các định mức và chứng từ thanh toán chi tiết nhưng các thủ tục này không gắn liền với đòi hỏi thực tế và chất lượng chuyên môn. Vì vậy, cán bộ khoa học đầu tư rất nhiều thời gian vào việc hoàn thành thủ tục tài chính, trong khi một phần lớn thủ tục này chỉ là hình thức. Những cố gắng đáp ứng một cách hình thức này, một mặt xói mòn tinh thần trung thực của cán bộ khoa học, mặt khác vẫn tạo ra những kẽ hở cho tham nhũng.
Bên cạnh những bất cập về kinh phí, cán bộ nghiên cứu còn khó khăn về các bất cập trong tổ chức. Cơ chế tập trung trong quản lý khiến vừa hạn chế vai trò của Viện, Trường, vừa làm quá tải và chậm chễ công tác của cấp Bộ. Thu nhập chính đáng của cán bộ khoa học được gắn với chức vụ, thứ bậc về mặt hành chính mà không gắn với khối lượng và chất lượng công trình nghiên cứu. Công tác tuyển chọn, tuyển dụng cán bộ nghiên cứu không thu hút và bồi dưỡng được nhân tài. Việc cất nhắc, đề bạt cán bộ dựa theo các tiêu chí về bằng cấp, học vị mà không dựa vào các tiêu chuẩn thực tài, năng lực nghiên cứu, kiến thức chuyên môn thực sự. Chế độ biên chế cứng cản trở cán bộ có năng lực tham gia đội ngũ nghiên cứu, trong khi dung dưỡng một số cán bộ (kể cả người ở lứa tuổi trẻ) ỉ lại không chịu học hỏi, phấn đấu.
Các vướng mắc trong quản lý khoa học dẫn đến tình trạng phân chia vốn cho các đơn vị nghiên cứu theo kiểu “bốc thuốc” với mục đích rải đều để nuôi các đơn vị hơn là tạo ra các công trình tạo ra các tiến bộ mang tính chất đột phá trong khoa học. Việc lựa chọn ưu tiên nghiên cứu chưa bám sát nhu cầu thực tế của sản xuất Hoạt động nghiên cứu, đào tạo và khuyến nông không phối hợp chặt chẽ với nhau. Các đề tài cấp Quốc gia, cấp Bộ, cấp địa phương và của quốc tế nhiều khi trùng lắp hoặc bỏ trống nhiều lĩnh vực quan trọng. Kết quả nghiên cứu chưa được hỗ trợ và giám sát để được tuyên truyền và áp dụng trong thực tiễn. Công tác đánh giá hiệu quả nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ còn hình thức, không gắn với đánh giá và đãi ngộ cho cơ quan, cán bộ nghiên cứu.
Trong chương trình phát triển tương lai, ngành nông nghiệp phải tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao trong hoàn cảnh nguồn đất và nguồn nước ngày càng thu hẹp, giá lao động tăng dần, mức độ cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt. Rõ ràng, động lực phát triển chính trong tương lai phải là KHCN. Mặc dù phaỉ đương đầu với rất nhiều khó khăn, các nghiên cứu gần đây của Ngân hàng thế giới cho thấy hiệu quả đầu tư cho KHCN nông nghiệp Việt Nam cao gấp 10 lần so với đầu tư cho thuỷ lợi, gấp 4 lần cho giao thông nông thôn và gấp 6 lần cho giáo dục cơ sở. Phát triển và ứng dụng KHCN là đỏi hỏi tất yếu của cuộc sống. Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước gần đây về đổi mới khoa học công nghệ đang thổi lên một làn gió mới đáp ứng nguyện vọng chính đáng này của cuộc sống. Nhìn chung, các chính sách này tạo điều kiện để cơ chế thị trường phát huy tác dụng trên hai lĩnh vực chính, một là thị trường lao động của trí thức, hai là thị trường của sản phẩm khoa học công nghệ. Các chính sách này một mặt trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức khoa học công lập, mặt khác tạo ra những khuyến khích về vật chất và tinh thần cho người lao động trí óc, nhất là người tài. Ở đầu ra, chính sách mới tạo điều kiện hình thành thị trường công nghệ và tạo điều kiện để thị trường đó phát triển.
Khác với các chính sách đổi mới trong nông nghiệp trước đây, các chính sách đổi mới trong KHCN bên cạnh những cơ hội to lớn cũng đem lại nhiều thách thức cho cán bộ nghiên cứu và lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu khoa học. Điều lo ngại chính là việc cắt quỹ lương biên chế thường xuyên. Những người không có khả năng học tập, phấn đấu sợ bị mất nguồn trợ cấp ổn định, nhưng những người chấp nhận cạnh tranh muốn vươn lên cũng e ngại về khả năng hình thành một thị trường khoa học công bằng. Nhiều câu hỏi hợp lý được nêu lên như: Liệu các đề tài được đưa ra đấu thầu có được xét duyệt một cách cạnh tranh công bằng hay không? Trình độ và đức độ của những người cầm cân nảy mực trong việc lựa chọn, đánh giá các cơ quan nghiên cứu có công minh, vô tư hay không? Có chấm dứt được tình trạng nể nang, chạy trọt, “quân xanh, quân đỏ” đã từng xẩy ra trong khoa học và trong xây dựng cơ bản? Trong điều kiện giao quyền quản lý cao cho các cấp lãnh đạo, có cách nào gắn giữa trách nhiệm cá nhân với quyền hạn, có cách nào phát huy dân chủ, đảm bảo chế tài của pháp luật để ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lạm quyền được hay không?
Đối với người lãnh đạo các đơn vị, nhiều băn khoăn vướng mắc cũng được nêu ra như: Có nên nhẫn tâm và có thể quyết tâm đưa ra khỏi công tác nghiên cứu một số lớn cán bộ không đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn mới nhưng lại là những người đã đóng góp công sức cho cơ quan, cho lĩnh vực nghiên cứu qua nhiều năm gian khổ? Làm thế nào thu hút được đội ngũ các cán bộ trẻ, có năng lực, được đào tạo tốt nhưng đòi hỏi đãi ngộ cao và thiếu nhiều kinh nghiệm về thực tiễn? Làm thế nào chuyển từ một cơ chế chủ yếu dựa vào đầu tư của Nhà nước, dựa vào khách hàng Nhà nước, sang cơ chế đa dạng về nguồn thu, cạnh tranh trên thị trường trong khi các văn bản, luật lệ nhất là về tài chính chuyển đổi rất chậm? Làm thế nào chuyển đổi từ cơ chế quản lý dựa vào tập thể các quyết định, nhất là về tổ chức phải thông qua tổ chức có sự đồng thuận cao, chuyển sang một cơ chế rõ ràng về trách nhiệm cá nhân?

*

* *

Để giúp Bộ Nông nghiệp và PTNT cải tiến hiệu quả công tác quản lý khoa học công nghệ, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển NNNT đã được Bộ giao phối hợp với Vụ Khoa học Công nghệ thực hiện 2 nhiệm vụ quan trọng sau trong 2 năm 2006-2007:

  1. Nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng một hệ thống chính sách đổi mới cơ chế quản lý họat động khoa học của Bộ theo tinh thần nghị định 115 và các văn bản đổi mới chính sách của Nhà nước về hoạt động KHCN
  2. Xây dựng chiến lược hoạt động KHCN cho Bộ trong giai đoạn 2006- 2010, làm căn cứ đầu tư và chỉ đạo cho các kế hoạch hàng năm.

Để thu hút mọi ý kiến đóng góp của các chuyên gia và đối tượng quan tâm đến công tác quan trọng này, nhóm tác giả của chương trình nghiên cứu xin mời các bạn đọc quan tâm gần xa tham gia diễn đàn này.

NỘI DUNG KHÁC

Hiện trạng nông thôn và nhu cầu chính sách hiện nay

15-12-2006

Quá trình hội nhập WTO và các hiệp định thương mại quốc tế khác sẽ thúc đẩy tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn trong 5 năm và 10 năm tới. Quá trình tái cơ cấu này sẽ hình thành những đơn vị sản xuất, ngành hàng cạnh tranh hiệu quả với sản phẩm nước ngoài. Những đơn vị sản xuất kém hiệu quả sẽ phá sản và nông dân qui mô nhỏ nếu không được trợ giúp kịp thời sẽ phá sản hàng loạt và có nguy cơ tạo ra sự mất ổn định về kinh tế, xã hội nông thôn

Chính sách thời hội nhập

15-12-2006

Để đóng góp tiếng nói, đóng góp ý tưỏng cho các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý nông nghiệp nông thôn, trên diễn đàn đối thoại chính sách trên trang thông tin điện tử của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, chúng tôi nêu lên một số câu hỏi lớn cần những đề xuất về phương diện xây dựng chính sách thể chế, rất mong được sự trao đổi, chia sẻ của các diễn giả, đọc giả

Kinh tế nông nghiệp - nông thôn: Liên kết hậu WTO

14-12-2006

Hiện nay, toàn quốc có hơn 700 ngàn trang trại, 80% các chủ trang trại là nông dân. Đây là một thị trường rộng lớn chiếm đến 75% dân số. Các DN nông nghiệp - nông thôn phải làm gì để hội nhập kinh tế quốc tế?

Hậu WTO: Trợ cấp nông nghiệp kiểu nào?

14-12-2006

Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự: “Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải bỏ những quy định về trợ cấp nông nghiệp trái với quy định của tổ chức này. Tuy nhiên, với những quy định mà WTO cho phép các thành viên khác áp dụng thì Việt Nam cũng sẽ được áp dụng. Quan trọng là chúng ta phân biệt rõ hình thức trợ cấp nào được phép và không được phép”.

Đại sứ EU: Chính phủ Việt Nam cởi mở với doanh nghiệp

14-12-2006

Đại diện Liên minh châu Âu nhận xét rằng Chính phủ Việt Nam đã có cuộc thảo luận thẳng thắn và cởi mở hơn bao giờ hết với cộng đồng các doanh nghiệp trong và ngoài nước tại diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam năm nay.

Phát triển kinh tế ĐBSCL: Hướng đi có, khó cách làm

14-12-2006

Xuất khẩu gạo và thuỷ sản là thế mạnh là 2 mặt hàng chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước, nơi sản xuất 52% sản lượng lúa, đóng góp 90% số lượng gạo xuất khẩu và gần 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Tuy nhiên, hai thế mạnh này vẫn chưa thực sự phát huy hết tiềm năng để thúc đẩy, đưa kinh tế các tỉnh trong khu vực phát triển nhanh như yêu cầu đặt ra. Tiềm năng còn bỏ ngỏ

85% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch vào năm 2010

14-12-2006

"Đảm bảo đến cuối năm 2010, 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 50% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn..." - đó là một trong các mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NT) giai đoạn 2006 - 2010, được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt hôm 11 - 12.

Bảo vệ rừng – trách nhiệm không của riêng ai.

14-12-2006

Các nhà nghiên cứu đã đưa ra hy vọng có thể cải thiện được tình trạng đang nóng lên của trái đất, bảo vệ các loài sinh vật đang đứng trước nguy cơ tiệt chủng và các vấn đề khác về môi trường.

ADB hỗ trợ 45 triệu USD giúp giảm phá rừng ở Tây Nguyên

14-12-2006

Bản tin ra ngày 1/12 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho biết ngân hàng này sẽ hỗ trợ Việt Nam giải quyết tình trạng nghèo đói ở khu vực nông thôn và tình trạng giảm diện tích rừng ở Tây Nguyên thông qua khoản cho vay 45 triệu USD.

Cần có biện pháp bảo vệ tài nguyên nước

14-12-2006

Thành phố Hồ Chí Minh hiện có khoảng 700 tuyến sông, kênh, rạch. Ngoài phục vụ giao thông, kênh rạch còn có nhiệm vụ quan trọng là điều tiết và thoát nước. Nhưng tình trạng ô nhiểm nặng đã khiến cho không ít dòng kênh nơi đây trở thành những dòng “kênh độc”, “kênh chết”

Năm 2007- Mặt bằng giá mới được thiết lập

14-12-2006

Năm 2007, Chính phủ sẽ điều hành giá cả các mặt hàng thiết yếu linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đưa hệ thống giá trong nước tiệm cận với giá thị trường thế giới

Dự báo đầu tư nước ngoài năm 2007 có thể đạt con số 10 tỷ USD

14-12-2006

Trong những năm tới, cùng với việc nước ta trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ mạnh hơn hẳn trong những năm tới. Đây chính là nguồn động lực thúc đẩy nền kinh tế của nước ta phát triển.