TIN TỨC-SỰ KIỆN

Đảm bảo an ninh nguồn nước, xử lý hiệu quả ô nhiễm tại các dòng sông

Ngày đăng: 05 | 06 | 2024

Trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đã nêu nhiều giải pháp về đầu tư các công trình hồ, đập giúp khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn , đảm bảo an ninh nguồn nước; phát huy hiệu quả cơ chế quản lý nước theo lưu vực sông; đặc biệt là giải pháp giúp từng bước hồi sinh các dòng sông đang bị ô nhiễm nặng. Sáng 4/6, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì và điều hành của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp 7. Sau phát biểu mở đầu phiên chất vấn của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đã đăng đàn trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội liên quan đến lĩnh vực do Bộ quản lý.

88(1)
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh trả lời chất vấn của Quốc hội

Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước

Tại phiên chất vấn, nhiều đại biểu đã đặt câu hỏi cho Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh liên quan đến tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về an ninh nguồn nước; giải pháp phòng, chống tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước.

Đại biểu Đoàn Thị Hảo - Đoàn Thái Nguyên nêu vấn đề, hiện nay, trên cả nước có khoảng trên 40.200 công trình khai thác sử dụng nước, trong đó có 6.750 hồ thủy lợi với nhiều hồ, đập nhỏ, phần lớn được xây dựng từ những năm 1970 - 1980 trong điều kiện kinh phí, trình độ kỹ thuật hạn chế, chất lượng thiết kế thi công chưa phù hợp, không có hồ sơ, thiếu kinh phí bảo trì,… Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết trong thời gian tới, Bộ trưởng và ngành sẽ có giải pháp gì để khắc phục tình trạng trên?

Trả lời chất vấn của đại biểu Đoàn Thị Hảo, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, hiện có 6550 hồ thủy lợi với hơn 1000 hồ đã được xây dựng từ lâu, do đó, nguy cơ về an toàn hồ đập là rất lớn. Nếu sửa chữa, nâng cấp và cải tạo thì cũng cần nguồn nhân lực rất lớn.

Bàn về giải pháp xử lí vấn đề này, Bộ trưởng cho biết, Luật Tài nguyên nước đã được Quốc hội thông qua, theo đó tập trung giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương phối hợp với nhau để điều hòa, phân phối nguồn nước, đưa ra các kịch bản nguồn ngước để đảm bảo an ninh nguồn nước. Đối với các địa phương nắng nóng như miền Trung, nếu không có các hồ thủy lợi thì sẽ hạn hán rất lớn. Do đó, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho rằng, với việc quản lý các hồ đập, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất báo cáo Thủ tướng Chính phủ rà soát lại các hồ đập để đảm bảo việc giữ nước, tích trữ nước, đảm bảo sản xuất bền vững, đảm bảo điều hòa và an ninh nguồn nước.

Đặt vấn đề về phát huy hiệu quả cơ chế quản lý nước theo lưu vực sông, đại biểu Lê Đào An Xuân - Đoàn Phú Yên cho biết, việc khai thác và bảo vệ nguồn nước ở lưu vực sông hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức, trong đó thiếu sự phối hợp giữa các tỉnh thượng nguồn và hạ nguồn trong việc bố trí các công trình phát triển kinh tế - xã hội dọc nguồn nước, dẫn đến ô nhiễm môi trường và khai thác, sử dụng nước thiếu bền vững.

Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết định hướng cũng như giải pháp đột phá trong thời gian tới để phát huy hiệu quả cơ chế quản lý nước theo lưu vực sông để đảm bảo tính bền vững nguồn nước?

Trả lời chất vấn của đại biểu Lê Đào An Xuân, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết từ 1/7, Luật Tài nguyên nước có hiệu lực sẽ có nội dung Tổ chức lưu vực sông. Đây là tổ chức liên ngành do Thủ tướng thành lập, quyết định số lượng thành phần, cơ cấu tổ chức, bộ máy và kinh phí hoạt động.

Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ xây dựng đề án để thành lập Tổ chức lưu vực sông trình Thủ tướng. Bộ đang dự kiến nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Chủ tịch UBND các tỉnh phải là thành viên của Tổ chức lưu vực sông này, nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước và bảo vệ môi trường. Nếu để tình trạng xả thải không kiểm soát từ đầu nguồn nước thì các địa phương cuối lưu vực sẽ ảnh hưởng rất lớn.

888 (1)
Quang cảnh phiên chất vấn

Liên quan đến giải pháp cho tình trạng công trình thủy điện chưa đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, đại biểu Lưu Bá Mạc - Đoàn Lạng Sơn cho biết, hiện nay có nơi, vẫn có tình trạng công trình thủy điện chưa thực sự quan tâm, đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông theo đúng quy định. Thậm chí có nơi cố tình không thực hiện, dẫn tới vấn đề nước ở hạ lưu một số công trình thủy điện cạn khô, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển đa dạng sinh học, cũng như sự phát triển du lịch. Đại biểu đề nghị Bộ Trưởng cho biết thực trạng và giải pháp của trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát và giải quyết vấn đề nêu trên?

Về vấn đề này, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, hiện nay, các thủy điện đều phải chấp hành quy định về duy trì dòng chảy tối thiểu để duy trì sinh hoạt của người dân, đặc biệt là các thủy điện ở vùng cao. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có nhiều cố gắng thực hiện việc yêu cầu các nhà máy thủy điện lắp hệ thống quan trắc, giám sát, kết nối về Bộ để theo dõi, giám sát, quản lý. Hiện đã có hơn 850 hồ thủy điện kết nối về Bộ, khi có hiện tượng không duy trì dòng chảy tối thiểu thì sẽ tổ chức trực tiếp kiểm tra, xử lý theo quy định. Thời gian tới, Bộ sẽ tăng cường kiểm tra, giám sát, đồng thời yêu cầu các địa phương thực hiện kết nối hồ thủy điện với cấp sở, cấp bộ để cùng giám sát, đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu, không làm ảnh hưởng đến đời sống người dân.

“Hồi sinh” các dòng sông ô nhiễm nặng

Nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường nước, đặc biệt là làm sao hồi sinh các “dòng sông chết”, ô nhiễm nặng.

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - Đoàn Hải Dương đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết giải pháp và kế hoạch của Bộ trong việc “hồi sinh” các dòng sông chết do ô nhiễm trầm trọng trong thời gian tới, trong đó có hệ thống lợi Bắc Hưng Hải?

Trả lời câu hỏi chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, trong Luật Tài nguyên nước đã có nội dung liên quan đến phải phục hồi các “dòng sông chết”. Hiện nay, các dòng sông như Bắc Hưng Hải, Nhuệ, Đáy, sông Cầu, v.v.. thực chất là đang ô nhiễm nặng, còn “dòng sông chết” là dòng sông vừa ô nhiễm, vừa không có dòng chảy. Bộ trưởng cho biết, vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các địa phương cũng tích cực xử lý nhưng chưa cải tạo được bao nhiêu, bởi vì hầu hết ở các khu công nghiệp, các làng nghề xả thải ra dòng sông này, tức là chưa kiểm soát được nguồn thải. Lí do là bởi nguồn lực chưa đủ để đầu tư hệ thống thu gom, hệ thống xử lý. Do vậy, các địa phương phải cùng với nhau chung tay để thu gom, xử lý nước thải đồng bộ.

Theo Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh, đã là dòng sông thì phải có dòng chảy và có sự lưu thông. Hiện nay, kênh Bắc Hưng Hải có thời điểm bị treo, tức là nước ở sông Hồng không vào được Bắc Hưng Hải. Thủ tướng, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chỉ đạo và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã làm trạm bơm cục bộ cho mùa hạn. Nhưng theo Bộ trưởng, thực chất đây không phải là giải pháp căn cơ và cho rằng, chúng ta phải tính giải pháp căn cơ là giữ được nước và nước chảy được tự nhiên, lưu lượng lớn, như vậy sẽ thông được, điều hòa được dòng chảy này.

Về vấn đề quản lý, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7 tới. Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ thành lập ngay Ủy ban quản lý lưu vực sông, tức là trách nhiệm chung các tỉnh, các bộ ngành và Ủy ban để điều phối vấn đề này. Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị trong giai đoạn 2026 - 2030, Chính phủ cần quan tâm đầu tư công để xử lý các dòng sông ô nhiễm này.

Cùng quan tâm đến vấn đề ô nhiễm nguồn nước sông Nhuệ - Đáy, đại biểu Mai Thị Phương Hoa - Đoàn Nam Định cho biết, tỉnh Nam Định cũng như các tỉnh nằm ở lưu vực sông Nhuệ - Đáy là những địa phương chịu tác động nặng nề của ô nhiễm nguồn nước do nước thải chưa đạt tiêu chuẩn xả vào. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nước thải từ đô thị làng nghề, nước thải công nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu nước thải phát sinh, trong khi đó tỷ lệ nước thải thu gom đạt tỷ lệ thấp.

Đại biểu Mai Thị Phương Hoa đề nghị Bộ trưởng nêu rõ đánh giá về tình trạng nơi nào xả thải càng nhiều, việc xử lý nước thải càng ít? Tình trạng đô thị xả thải, nông thông gánh chịu ô nhiễm? Bên cạnh đó, ngoài giải pháp thành lập Ủy ban lưu vực sông, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với các địa phương thuộc lưu vực có các đô thị làng nghề lớn hoặc phối hợp, với các Bộ, ngành có liên quan để giải quyết tình trạng ô nhiễm nước sông Nhuệ - Đáy như thế nào?

Trả lời câu hỏi của đại biểu về ô nhiễm trên hệ thống sông Nhuệ, sông Đáy, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết, chất lượng nước sông Nhuệ - Đáy nhiều năm gần đây ô nhiễm chưa được cải thiện, đặc biệt là các sông đầu nguồn nội thành của Hà Nội. Ô nhiễm của sông Nhuệ - Đáy, nguồn thải của Hà Nội chiếm 65%, trong đó nước thải sản xuất và làng nghề toàn sông Nhuệ - Đáy có khoảng 1982 nguồn xả thải, trong đó có 1662 nguồn thải có cơ sở sản xuất, kinh doanh và 39 nguồn thải là khu công nghiệp, cụm công nghiệp.

Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, trong thời gian qua, Bộ đã tăng cường hệ thống quan trắc và phân tích môi trường trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy. Hiện nay có 5 điểm quan trắc tự động, 42 điểm quan trắc định kỳ môi trường nước mặt, ngoài ra các điểm xả thải có lưu vực lớn và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường được thiết lập quan trắc thường xuyên và liên tục, kết nối dữ liệu online. Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa khánh thành trung tâm dữ liệu sẽ kết nối về đây để chúng tôi kiểm tra, giám sát. Bộ cũng thực hiện việc đánh giá sức chịu tải của các dòng sông, với quan điểm sẽ trao đổi với các địa phương có giải pháp xử lý phù hợp.

Về việc thu gom, xử lý, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho rằng, chúng ta phải xây dựng một kế hoạch, phải có sự vào cuộc của tất cả các địa phương, chung sức, đồng lòng để cùng xử lý nguồn thải, tạo được dòng chảy. Nam Định là cuối nguồn, chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khu vực. Cho nên, kiến nghị địa phương tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cùng với đó, trong thời gian tới chú trọng đầu tư công cho lĩnh vực thu gom, xử lý nước thải và hệ thống thủy lợi của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Theo Monre

NỘI DUNG KHÁC

“Tích hợp tiêu chí xanh vào hoạt động sản xuất, không khó như doanh nghiệp nghĩ”

10-6-2024

Theo góc nhìn của ông Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu như Việt Nam không chủ động đẩy mạnh quá trình chuyển đổi nâu sang xanh, Việt Nam sẽ có thể mất thị phần trong nhiều lĩnh vực trên thị trường quốc tế.... Hiện nay, các quốc gia phát triển đã đưa ra nhiều quy định về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Như từ tháng 1 năm 2023, châu Âu đã đưa ra quy định là tất cả các doanh nghiệp niêm yết phải có báo cáo bền vững và báo cáo này bắt buộc phải thực hiện từ tháng 6 năm 2024. Các nước như Anh, Mỹ, Singapore, Malaysia, Hồng Kông, Nhật Bản, Úc và New Zealand cũng đã bắt buộc thực hiện báo cáo phát triển bền vững này. “Các doanh nghiệp đa quốc gia chỉ chiếm 1% thị phần tại Việt Nam và họ sẵn sàng hy sinh thị phần tại Việt Nam để bảo vệ 99% thị phần còn lại. Nếu Việt Nam không có báo cáo phát thải, họ sẽ không tiếp tục thương mại và đầu tư với chúng ta”, ông Thọ cho hay. Trong lĩnh vực dệt may, việc chuyển từ nâu sang xanh không làm giảm cạnh tranh mà thực tế cho thấy nếu không chuyển đổi sang kinh tế xanh, chúng ta sẽ mất thị phần. Ví dụ, Bangladesh đã vượt qua Việt Nam về xuất khẩu do họ đã áp dụng các tiêu chuẩn xanh như LEED và sử dụng năng lượng mặt trời, trong khi Việt Nam giảm 75% đơn hàng vào cuối năm 2022 và 10% trong năm 2023.

Trình Quốc hội cho phép thi hành sớm Luật Đất đai và 3 luật khác từ 1/8/2024

10-6-2024

Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai số 31/2024/QH15, Luật Nhà ở số 27/2023/QH15, Luật Kinh doanh bất động sản số 29/2023/QH15, Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 theo quy trình xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn tại một kỳ họp của Quốc hội. Ngày 9/6/2024, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 84/NQ-CP về Dự án xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai số 31/2024/QH15, Luật Nhà ở số 27/2023/QH15, Luật Kinh doanh bất động sản số 29/2023/QH15, Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15. Theo đó, Chính phủ thống nhất thông qua Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai số 31/2024/QH15, Luật Nhà ở số 27/2023/QH15, Luật Kinh doanh bất động sản số 29/2023/QH15, Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 theo đề nghị của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 60/TTr-BTNMT ngày 07 tháng 6 năm 2024 và hồ sơ liên quan kèm theo, cụ thể:

Hội thảo đào tạo về Hạch toán tài khoản đại dương và lượng giá dịch vụ hệ sinh thái

12-6-2024

Ngày 11/6/2024, tại Hạ Long, Quảng Ninh, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh tổ chức Hội thảo đào tạo về Hạch toán tài khoản đại dương và lượng giá dịch vụ hệ sinh thái nhằm cung cấp các khái niệm cơ bản về hạch toán tài khoản đại dương và giới thiệu các phương pháp lượng giá dịch vụ hệ sinh thái và thực tế triển khai tại Việt Nam. Ông Trần Văn Thuận, Phó Chi cục trưởng Chi cục Biển và Hải đảo, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh đã đến tham dự và phát biểu khai mạc Hội thảo. Hội thảo thu hút sự quan tâm của đại diện các Sở ngành liên quan tại Quảng Ninh, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bái Tử Long, và các giảng viên của trường Đại học Hạ Long. Hạch toán tài khoản đại dương là một khung thống kê để sắp xếp các dữ liệu và số liệu thống kê có liên quan, dựa trên các nguyên tắc và tiêu chuẩn của Hệ thống hạch toán kinh tế môi trường (SEEA). SEEA cung cấp các tiêu chuẩn để tổng hợp dữ liệu vật lý về môi trường và liên kết dữ liệu đó với dữ liệu tiền tệ trong Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). Phương pháp này có thể được áp dụng không chỉ để tính toán dữ liệu về trữ lượng cá mà còn sử dụng trong tính toán các nguồn gây ô nhiễm trên đất liền và giá trị của các dịch vụ hệ sinh thái như bảo vệ bờ biển, hấp thụ carbon và giải trí.

Hệ thống thông tin là "chìa khóa" quản trị tài nguyên đất đai

18-6-2024

Chiều 12/6, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp với các bộ, ngành, hiệp hội, chuyên gia và kết nối trực tuyến với 63 địa phương về dự thảo Nghị định quy định về điều tra cơ bản đất đai; đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và hệ thống thông tin đất đai (dự thảo Nghị định). Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), dự thảo Nghị định gồm 5 chương, 68 điều quy định chi tiết 11 nội dung được giao trong Luật Đất đai. Nghị định được ban hành nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; chuyển trọng tâm từ quản lý bằng các công cụ hành chính sang sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế để thúc đẩy sử dụng đất hợp lý, hiệu quả, bền vững. Hiện đại hóa, chuyển đổi số công tác quản lý đất đai dựa trên hệ thống thông tin, dữ liệu đất đai thống nhất, tập trung, phục vụ đa mục tiêu kết nối từ Trung ương đến địa phương, quản lý biến động đến từng thửa đất. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với giám sát, kiểm soát quyền lực của cơ quan và người có thẩm quyền trong quản lý đất đai. Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, HĐND, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp và nhân dân.

Gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước

18-6-2024

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 65/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước. Gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 5, 6, 7, 8, 9 năm 2024. Nghị định nêu rõ: Gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 5, tháng 6, tháng 7, tháng 8 và tháng 9 năm 2024 đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước. Thời gian gia hạn kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của pháp luật về quản lý thuế đến hết ngày 20 tháng 11 năm 2024, cụ thể như sau:a) Thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 5 năm 2024 chậm nhất là ngày 20 tháng 11 năm 2024.b) Thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 6 năm 2024 chậm nhất là ngày 20 tháng 11 năm 2024.c) Thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 7 năm 2024 chậm nhất là ngày 20 tháng 11 năm 2024.d) Thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 8 năm 2024 chậm nhất là ngày 20 tháng 11 năm 2024.đ) Thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 9 năm 2024 chậm nhất là ngày 20 tháng 11 năm 2024.

Trình Quốc hội dự án Luật Địa chất và Khoáng sản với nhiều điểm mới

26-6-2024

Tăng cường phân công, phân cấp cho chính quyền địa phương; bổ sung và làm rõ các hoạt động thu hồi khoáng sản, đăng ký khai thác khoáng sản nhóm IV không phải cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản; bổ sung các trường hợp đặc thù cho phép khai thác khoáng sản không phải có Quy hoạch khoáng sản… là những điểm mới tại dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản được Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Chiều 20/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Địa chất và khoáng sản. Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Địa chất và khoáng sản, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết: Sau 13 năm thi hành Luật Khoáng sản năm 2010, hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản cơ bản đầy đủ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản; đẩy mạnh điều tra địa chất về khoáng sản và công nghiệp khai khoáng; quản lý khoáng sản ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Nhiều chính sách quan trọng vẫn còn nguyên giá trị và được tiếp tục kế thừa.

Xung đột và thiên tai toàn cầu: Đẩy mức độ di dời tăng kỷ lục

26-6-2024

Cố vấn đặc biệt của Liên hợp quốc về Di dời nội bộ Robert Piper vừa cho biết, số người di cư trong nước nhiều gấp đôi so với 10 năm trước - con số lớn nhất từng được ghi nhận Ông Piper cho biết con số 76 triệu người trên toàn cầu hiện nay đại diện cho những người “mất nhà cửa, sinh kế, cộng đồng và trong một số trường hợp, mất cả danh tính hợp pháp của họ vì chiến tranh, thiên tai như động đất, lũ lụt và các thảm họa khác liên quan đến thời tiết”. Những người di cư trong nước (IDP), không giống như những người tị nạn, chưa vượt qua biên giới quốc tế. Trong khi một số người trở về nhà tương đối nhanh chóng thì hàng chục triệu người lại bị mắc kẹt trong tình trạng di cư dài hạn từ 5 đến 10 năm hoặc lâu hơn. Sự di cư kéo dài này thường là kết quả của xung đột và chiến tranh. Trong khi đó, hàng triệu người khác phải di cư do thiên tai như lũ lụt, bão, động đất và cháy rừng tàn phá các quốc gia trên thế giới. Số liệu gần đây nhất do Cơ quan tị nạn Liên hợp quốc (UNHCR) thu thập cho thấy 68,3 triệu người vẫn phải di dời trong nước do xung đột và bạo lực. Ước tính có khoảng 9,1 triệu người phải di dời ở Sudan, đây là số lượng người di cư trong nước lớn nhất từng được báo cáo. Tiếp theo là Syria, với 7,2 triệu người di cư trong nước và Cộng hòa Dân chủ Congo, với 6,7 triệu người.

Họp khởi động nhiệm vụ “Đánh giá nhu cầu, xây dựng chương trình đào tạo về kiểm kê khí nhà kính, đánh giá tổn thương khí hậu, kinh tế tuần hoàn, mua sắm công xanh... cho các đô thị loại II”

26-6-2024

Ngày 25/6/2024, tại Hà Nội đã diễn ra cuộc họp khởi động nhiệm vụ “Đánh giá nhu cầu, xây dựng chương trình đào tạo về kiểm kê khí nhà kính, đánh giá tổn thương khí hậu, kinh tế tuần hoàn, mua sắm công xanh... cho các đô thị loại II”. Đây là hoạt động nghiên cứu thuộc khuôn khổ dự án “Lồng ghép chống chịu biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh loại II” (Dự án Đô thị xanh) do Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ thông qua Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường được Bộ Tài nguyên Môi trường giao làm Chủ dự án, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường là cơ quan đồng thực hiện. Cuộc họp khởi động có sự tham gia của các đại biểu đến từ các cơ quan ban ngành, các Viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế, chuyên gia đã đến tham dự và đóng góp ý. Là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương trước các tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam đang trong thời điểm then chốt của quá trình phát triển đô thị. Với tốc độ phát triển và dân số đô thị như vậy, Việt Nam sẽ phải đối mặt ngày càng nhiều với những vấn đề phức tạp phát sinh từ quá trình đô thị hóa, đặc biệt là vấn đề môi trường và BĐKH. Do đó, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương là nhiệm vụ rất quan trọng đối với Việt Nam và được coi là ưu tiên chính trong chương trình nghị sự của Chính phủ Việt Nam.

ssdjsahd

22-10-2018

Ngày 19/10/2018, TS. Võ Tuấn Nhân - Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì Hội nghị Đánh giá kết quả triển khai nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng cho các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường giai đoạn 2015-2018 và định hướng đến 2021.

Đối thoại chính sách “Sử dụng công cụ kinh tế để quản lý không khí, nước, chất thải và tài nguyên biển: bài học kinh nghiệm và các bước tiếp theo”

1-11-2018

Ngày 1/11/2018, tại Hà Nội, Sáng kiến Môi trường cho Phát triển (Thụy Điển) và Viện Kinh tế môi trường Đông Nam Á (EEPSEA), phối hợp với Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE), Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) tổ chức Hội nghị Đối thoại chính sách “Sử dụng công cụ kinh tế để quản lý không khí, nước, chất thải và tài nguyên biển: bài học kinh nghiệm và các bước tiếp theo”. Viện trưởng ISPONRE - PGS.TS Nguyễn Thế Chinh đồng chủ trì Hội nghị. Với mục tiêu chia sẻ kinh nghiệm và tăng cường phối hợp nhằm triển khai các hoạt động thực tiễn trong tương lai, Hội thảo thu hút được nhiều sự quan tâm của các đại biểu trong và ngoài nước.

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường hoàn thiện các nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng 2019

5-11-2018

Ngày 5/11/2018, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức họp về việc hoàn thiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng 2019 của Viện. Tại buổi họp, các chủ nhiệm nhiệm vụ lần lượt trình bày và tiếp thu ý kiến góp ý của Lãnh đạo Viện để chỉnh sửa nhẳm đảm bảo nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng được thực hiện đúng chất lượng, đúng thời gian và kinh phí phù hợp. Làm tốt việc lập nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức khoa & học công nghệ như Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, đồng thời, tạo điều kiện để Viện thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát huy tính chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm được cơ chế thu nhập của công chức, viên chức, người lao động theo hiệu quả công việc một cách dân chủ, công bằng.

Hội thảo "Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật Đất đai 2013"

7-11-2018

Ngày 7/11/2018, trong khuôn khổ hợp tác với Quỹ Hanns Seidel Foundation (HSF), Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) tổ chức Hội thảo "Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật Đất đai 2013". Hội thảo do TS Mai Thanh Dung, Phó Viện trưởng ISPONRE chủ trì. Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, tích cực trao đổi và có những ý kiến, đề xuất tâm huyết để ISPONRE tổng hợp, báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường đưa vào kiến nghị sửa đổi Luật Đất đai 2013.