HỘI THẢO

Điện Biên khó khăn về giải quyết nhà ở và nước sinh hoạt

Ngày đăng: 11 | 08 | 2008

Sau khi Quyết định số 134/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ “Về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn” được ban hành, tỉnh Điện Biên đã bắt tay vào việc xây dựng đề án đồng thời điều tra, rà soát lại các đối tượng trong diện được ưu đãi theo quyết định trên.

Thực hiện quyết định 134 của thủ tướng chính phủ

Ước tính ban đầu, số hộ cần hỗ trợ đất ở của tỉnh là 16.166 hộ, số hộ cần hỗ trợ nhà ở khoảng 22.500 hộ, số cần nguồn nước sạch là 196.000 người và trên 17.000 hộ cần hỗ trợ đất sản xuất. Đến thời điểm này, việc xây dựng đề án để quyết định 134 đi vào cuộc sống đã cơ bản hoàn thành. Mặc dù vậy, tỉnh Điện Biên lại đứng trước những khó khăn chưa tìm ra được cách giải quyết thấu đáo.

Theo bà Nguyễn Thị Xuyến- Trưởng phòng Chính sách của Ban Dân tộc tỉnh Điện Biên thì một trong những khó khăn nhất của tỉnh khi đi vào thực hiện Quyết định 134 chính là việc xác định tỉ lệ đói nghèo.Việc xác định tỉ lệ này đã được tiến hành vào năm 2002 (khi chưa chia tách tỉnh) nhưng trong đợt điều tra lại vừa qua thì tỉ lệ đói nghèo lại cao hơn. Nguyên nhân của tình trạng này chính là do có sự chênh lệch khi báo cáo thành tích và khi hưởng chính sách. Các ranh giới để xác định giữa nghèo đói và thoát nghèo rất khó khăn. Chính các chính sách ưu đãi dành cho người nghèo đôi khi đã khiến nhiều người không muốn thoát ra khỏi diện đói nghèo để còn được hưởng chính sách ưu tiên. Do vậy việc bình xét cũng là một trong những khâu rất dễ xảy ra sai sót. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong những khó khăn nhỏ trong quá trình chuẩn bị thực hiện đề án. Điều gây nhiều trăn trở nhất cho Điện Biên lại là những vấn đề liên quan đến việc giải quyết nhà ở và nước sinh hoạt cho các hộ bà con có nhu cầu. Hiện nay Điện Biên mới chỉ có 42% dân số của tỉnh là được sử dụng nguồn nước sạch. Số này lại tập trung ở các thành phố và trung tâm huyện. Còn số gia đình hiện phải sống ở nhà dột nát lại quá nhiều.

Nhưng trở ngại lớn ở đây chính là nguồn kinh phí theo quy định của Quyết định 134 quá thấp trong khi gần 90% ngân sách của tỉnh là do ngân sách Nhà nước cấp, các nguồn tài trợ khác hầu như không huy động được. Theo Quyết định 134 và Thông tư hướng dẫn số 819 đối với việc hỗ trợ nhà ở thì ngân sách Nhà nước sẽ cấp cho mỗi hộ gia đình trong diện ưu đãi là 5 triệu đồng, địa phương sẽ phải bỏ ra số tiền tương đương 1 triệu đồng/hộ. Điều này khiến các cơ quan chức năng của tỉnh rất khó khăn trong việc cân đối ngân sách cho phù hợp với thực tế. Ngoài ra theo hướng dẫn của Thông tư số 819 thì đây sẽ là chương trình phối hợp Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhưng những hộ có nhu cầu hỗ trợ nhà ở lại thường rơi vào các gia đình thiếu lao động, người già neo đơn, sống ở những vùng hẻo lánh, cách xa cộng đồng dân cư, không đủ khả năng để tự làm nhà. Đối với việc hỗ trợ cho các hộ thiếu nước sinh hoạt lại gặp phải những trở ngại khác. Theo đúng quy định thì mỗi hộ trong diện thụ hưởng chương trình này sẽ được hỗ trợ 300.000 đồng hoặc 0,5 tấn xi măng để tự thiết kế công trình nước sạch cho gia đình. Trong khi đó, các hộ thuộc diện nghèo đói chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao hiểm trở, giao thông đi lại rất khó khăn, hầu như chưa được đầu tư gì về cơ sở hạ tầng. Thực tế này sẽ dẫn đến một tất yếu đó là chi phí vận chuyển nguyên vật liệu cho xây dựng sẽ tốn kém gấp nhiều lần so với các vùng thấp. Những hộ được hỗ trợ nhà thì gặp nhiều khó khăn trong khâu vận chuyển còn các hộ được hỗ trợ công trình nước sạch thì với số tiền nhỏ bé như vậy không đủ để xây bể hoặc đào giếng trên đồi, núi.

Với những khó khăn như đã nêu trên, Điện Biên hiện nay vẫn đang gấp rút tiến hành các bước chuẩn bị cho việc thực hiện Quyết định 134 nhưng lại chưa tìm ra được cách giải quyết sao cho Quyết định 134 thực sự đi vào cuộc sống của người dân với những kết quả như mong muốn. Thiết nghĩ, các chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước dành cho bà con nghèo luôn mang những ý nghĩa thiết thực. Tuy nhiên, các nhà hoạch định, các cơ quan chức năng cũng nên xem xét để phân bổ ngân sách cho phù hợp với từng vùng miền để các chính sách phát huy được hiệu quả đồng thời tạo ra cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn có thể phát triển bền vững.

Nguồn: cema.gov.vn

NỘI DUNG KHÁC

Đăk Nông: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn

26-9-2008

Tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên trên 6.514 Km2, dân số khoảng 430 nghìn người, trong đó dân số sinh sống ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 86%. Trong cơ cấu kinh tế của tỉnh hiện nay nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ lực, giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm trên 5,6%. Nhưng trong khoảng 10 năm tới, theo định hướng phát triển của tỉnh thì cơ cấu kinh tế của tỉnh sẽ có nhiều thay đổi, trong đó ngành công nghiệp- thương mại- dịch vụ- xây dựng sẽ giữ vai trò chủ lực.

Đăk Nông với mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 2007 - 2010

11-8-2008

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xóa đói, giảm nghèo, các cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận, đoàn thể các cấp tỉnh Đắk Nông đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, có hiệu quả, cộng với sự phấn đấu, nỗ lực của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, nên công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Đăk Nông: Nhiều doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực trồng rừng

17-8-2008

Tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên 651.438 ha, trong đó tổng diện tích đất lâm nghiệp là 391.635 ha với 29.422 ha đất chưa có rừng. Trong khi đó, Đắk Nông là vùng đất có nhiều ưu thế để phát triển diện tích rừng trồng như: có nhiều diện tích đất trống, đồi núi trọc, hàng năm có lượng mưa lớn, đất đai thổ nhưỡng màu mỡ… phù hợp với việc trồng rừng.

Đăk Nông: Đẩy mạnh các giải pháp xoá đói giảm nghèo

26-8-2008

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc nên công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đã có nhiều chuyển biến tích cực. Để tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo, Đắk Nông đã đề ra nhiều biện pháp cho giai đoạn 2007 – 2010.

Kế hoạch thực hiện chương trình ARD SPS

26-2-2009

Sẽ có một giai đoạn tiền khởi động để giải quyết một số vấn đề tồn tại nhằm giúp giai đoạn khới động thực sự có thể tập trung vào các vấn đề thực sự như: xây dựng hướng dẫn, thủ tục hành chính chi tiết và kế hoạch thực hiện cụ thể.

Quản lý và tổ chức chương trình ARD SPS

26-2-2009

Việc quản lý của chương trình ARD SPS được thực hiện ở cấp độ tổng thể và hang ngày. Ủy Ban hỗn hợp và các Ban chỉ đạo chương trình là quản lý ở cấp độ tổng thể, còn các Ban quản lý chương trình (PMU), Ban điều phối cấp huyện và Hội đồng phát triển thôn bản là cấp độ quản lý hàng ngày.

Ngân sách chương trình ARD SPS

26-2-2009

Tổng ngân sách của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là 230 triệu Curon Đan Mạch. Các hạng mục ngân sách chính như sau.

Các hợp phần trong chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (ARD SPS)

26-2-2009

Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (ARD SPS) gồm có một hợp phần trung ương và một Hợp phần tỉnh. Hợp phần tỉnh hỗ trợ các tỉnh Điện Biên, Lào Cai và Lai Châu ở miền bắc Việt Nam và tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông ở Tây Nguyên.

Khung hoạt động chiến lược của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

26-2-2009

Tầm nhìn cho Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (ARD SPS), 2007-2012, là hỗ trợ Việt Nam trong các nỗ lực giảm nghèo và cải thiện các điều kiện sống của người dân nông thôn, trong đó tập trung vào những nhóm người nghèo dễ bị tổn thương ở miền núi như các dân tộc thiểu số và các hộ với chủ hộ là nữ.

Chương trình Hỗ trợ ngành nông nghiệp (ASPS)

26-2-2009

Việt Nam và Đan Mạch đã hợp tác trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn từ đầu những năm 1990. Phương pháp tiếp cận theo chương trình cho sự hợp tác này đã được bắt đầu triển khai từ năm 2000 với Chương trình Hỗ trợ ngành nông nghiệp (ASPS) có tổng vốn là 450 triệu Curon Đan Mạch trong giai đoạn 5 năm. Chương trình sau này đã được kéo dài tới giữa năm 2007.

Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (ARD SPS)

12-2-2009

Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (ARD SPS) gồm có một hợp phần trung ương và một Hợp phần tỉnh. Hợp phần tỉnh hỗ trợ các tỉnh Điện Biên, Lào Cai và Lai Châu ở miền bắc Việt Nam và tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông ở Tây Nguyên.