ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Thực tiễn từ một mô hình HTX chăn nuôi hiệu quả

Ngày đăng: 28 | 07 | 2009

AGROINFO - Mô hình hợp tác xã chăn nuôi ở Nam Sách, Hải Dương đã mang đến những hiệu quả thiết thực cho người nông dân, mang đến bài học kinh nghiệm quý báu cho việc nghiên cứu và xây dựng những mô hình sản xuất bền vững….

Từ tổ, nhóm sản xuất đến Liên hiệp Hợp tác xã

Từ năm 1997, Chương trình hợp tác Việt - Pháp (Chương trình ĐBSH) đã nghiên cứu, xây dựng mô hình chăn nuôi tập thể của nông dân dưới hình thức tổ, nhóm tại Nam Sách, Hải Dương. Đây chính là cơ sở ban đầu để hình thành mô hình hợp tác xã chuyên ngành chăn nuôi ở Hài Dương. Mô hình những tổ nhóm sản xuất đó đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực: Nâng cao hiệu quả sx; Giảm rủi ro; Khắc phục những khó khăn đầu vào, đầu ra; Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường; Nâng cao thu nhập hộ gia đình…

Nâng cao năng suất

Nuôi lợn 3/4: kéo dài thời gian nuôi cho tăng trọng cao à giảm lứa nuôi từ 4 xuống 3 lứa/năm, giảm chi phí giống, KL xuất chuồng tăng từ 50-70kg/con lên 80-100kg/con

Giảm chi phí thức ăn

Từ 2.800-4000 đ/kg xuống 2.500-3.000đ/kg

Cải thiện đk vệ sinh phòng bệnh

Thực hiện tiêm phòng đầy đủ, thuê bác sĩ thú y tư vấn à bệnh của đàn lợn giảm 80% so với trước nhóm

Giảm giá thành sx

Thấp hơn từ 1.000-1.500 đ/kg so với các hộ xung quanh

Nâng cao chất lượng lợn và giá bán

Giá bán cao hơn 1.500-2.000 đ/kg lợn hơi so với các hộ xung quanh

Số lượng các tổ, nhóm sản xuất được tăng lên trong những năm tiếp theo. Đến 8/2002: Hợp tác xã chuyên ngành chăn nuôi đầu tiên được thành lập. Đó là HTX HTX Dịch vụ Chăn nuôi Nam Sách với 20 xã viên, vốn điều lệ 200 triệu đồng. Đây là liên kết giữa các nhóm chăn nuôi ở 3 xã Nam Tân, Hợp Tiến, Nam Hưng. Các xã viên mua chung thức ăn, thực hiện chung quy trình kỹ thuật sx, tổ chức dịch vụ thú y, tiêu thụ sản phẩm…

Các hợp tác xã có nhiều những lợi thế hơn các tổ, nhóm sản xuất: Có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản; Có quy chế hoạt động chặt chẽ, tuân theo quy định pháp luật; Giải quyết được khó khăn về vốn; Thu hút được các nguồn hỗ trợ, đầu tư, các chương trình đào tạo; Nâng cao khả năng đàm phán trên thị trường…

Các khoản lãi

Giá trị (triệu đồng)

Lãi từ họat động mua chung cám công nghiệp

76

Lãi từ họat động mua chung ngô, cám gạo

38

Lãi từ họat động mua chung con giống

3,5

Từ họat đông mua thuốc thú y

9

Từ Vắc- xin

6,7

Từ họat động tư vấn thú y

55

Từ họat động mua chung sản phẩm

52

Tổng thu nhập của HTX

240

Lãi trực tiếp của nông dân khi tham gia HTX (Do các hoạt động tập thể mang lại như mua cám rẻ, ít dịch bệnh, bán đắt hơn, hiệu quả sản xuất cao hơn…)

300

Tổng lãi từ họat động tập thể của HTX

Giai đoạn 2003 – 2005: mô hình tiếp tục được nhân rộng và giữa các HTX đã liên kết thành lập Liên hiệp HTX Chăn nuôi Nam Sách với Gồm 7 HTX thành viên, 153 xã viên. Hoạt động của Liên hiệp được mở rộng cả về lĩnh vực lẫn quy mô: Chăn nuôi, mua bán gia súc, gia cầm; Đại lý, Chế biến thức ăn gia súc, chế biến thực phẩm, dịch vụ thú y…

Những thành công của một mô hình

Cơ sở chế biến, sản xuất thực phẩm của LH HTX Chăn nuôi Nam Sách

Mô hình sản xuất của hợp tác xã chăn nuôi Nam Sách đã làm thay đổi chất lượng đàn lợn tại địa phương. Các giống lợn ngoại, lợi lai được tăng nhanh về số lượng, cho năng suất cao. Trong khi đó, số lượng lợn Móng Cái , lợn F1 giảm xuống.

Hiệu quả của mô hình này còn cho thấy ở sự chênh lệch chi phí đầu vào và lợi nhuận thu được giữa người sản xuất trong và ngoài hợp tác xã. Đây là những thành công rất đáng kể, mang lại hiệu quả thiết thực cho người nông dân.

STT

Chỉ tiêu

Trong HTX

Ngoài HTX

Chênh lệch

1

Chi phí mua lợn giống khối lượng 15kg

255.000

262.500

7.500

2

Chi phí thức ăn công nghiệp dạng viên

682.000

755.000

73.000

3

Chi phí cho thú y

19.000

25.000

6.000

4

Tổng chi

956.000

1.042.500

86.500

5

Tổng thu xuất bán lợn

1.190.000

1.155.000

-35.000

6

Chênh lệch thu chi

234.000

112.500

121.500

Từ những thay đổi có tính hiện tượng, mô hình này đã hình thành nên những biến đổi về quy trình sản xuất, chăn nuôi. Những thay đổi về cách thức lựa chọn sản phẩm thức ăn chăn nuôi, nhà cung cấp dịch vụ, đầu tư cho thú y, cách thức chế biến sản phẩm, tiếp cận thị truờng… cho thấy mô hình đã thúc đẩy nhận thức của người dân rất rõ rệt.

Từ trong phạm vi một huyện, mô hình đã được nhân rộng rav 9 tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc bộ với 32 hợp tác xã, và 700 xã viên tham gia. Đây chính là một quá trình nhân rộng mô hình, mang lại hiệu quả xã hội rất thiết thực.

Những hạn chế

Tuy đạt được nhiều thành tựu nổi bật, nhưng mô hình Hợp tác xã Chăn nuôi Nam Sách không tránh khỏi được những hạn chế. Năng lực quản lý của người nông dân rất hạn chế nên không thể lường trước được những khó khăn, phức tạp có thể xẩy ra. Sự mâu thuẫn giữa quy định của pháp luật và quan hệ gia đình- làng xã ở nông thôn đã làm cho bộ máy tổ chức thêm phức tạp.

Quá trình quản lý không chặt chẽ, đã làm xã viên chạy theo lợi nhuận khi có sự tác động từ bên ngoài, không tuân thủ quy trình kỹ thuật và rụt rè khi đầu tư sản xuất.

Những hạn chế đó đã bộc lộ trong suốt quá trình phát triển. Cho đến khi dịch tai xanh trên gia súc bùng phát, họat động chăn nuôi của người dân bị ngưng trệ…

RUDEC/IPSARD

NỘI DUNG KHÁC

Ai được hưởng lợi trong chuỗi giá trị lúa gạo?

22-7-2009

Chỉ có người nông dân là gánh chịu rủi ro nhiều nhất, khi giá gạo tăng giá lúa không tăng cùng nhịp, không được hưởng lợi một cách công bằng trong toàn bộ chuỗi giá trị, khi giá giảm thì giá lúa giảm cùng nhịp, hàng tồn kho khó tiêu thụ, chịu lãi vay…

Các tổ chức của nông dân phải vì nông dân hơn nữa

19-7-2009

AGRO INFO - Tiến sĩ Lê Đức Thịnh, Trưởng bộ môn Thể chế nông thôn, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp - Nông thôn bàn về tổ chức và hiệu quả hoạt động của các tổ chức mang tiếng nói của người nông dân hiện nay…

Khi nông dân “thắt lưng buộc bụng” quá mức

14-7-2009

Tiến sĩ Lê Đức Thịnh, Trưởng bộ môn Thể chế nông thôn, thuộc Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiêp- Nông thôn trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Tiếp thị...

Nhìn lại mô hình “Nông thôn mới” của Hàn Quốc

8-7-2009

AGRO INFO- Hội thảo phát triển Nông nghiệp- Nông thôn Việt Nam- Hàn Quốc vừa diễn ra tại Hà Nội. Tiến sĩ Jang Heo, chuyên gia của Viện Kinh tế Nông nghiệp Hàn Quốc KREI đã có bài thuyết trình về mô hình “Nông thôn mới” của Hàn Quốc…

Định vị lại chiến lược xuất khẩu nông sản

4-7-2009

Kể từ khi đổi mới đến nay, quy mô thương mại nông-lâm-thủy sản ngày càng được mở rộng cả về thị trường và ngành hàng, nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt vị trí cao trên thị trường thế giới...

Thị trường gạo sẽ đảo chiều

27-4-2009

Khi Hoa Kỳ và Nhật Bản hành động để thay đổi cam kết song phương trong WTO, 1,5 triệu tấn gạo không sử dụng trong kho dự trữ của Nhật Bản sẽ ngay lập tức làm giảm “cơn khát” gạo trên thị trường vào cuối tháng 6/2008 này.

Doanh nghiệp tư nhân gia đình đội nhầm mũ công ty trách nhiệm hữu hạn

27-4-2009

Agroinfo - Hiện nay phát triển DNNVV trong nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cấp bách để có thể phát triển nền nông nghiệp hàng hóa cạnh tranh, hiện đại. Tuy nhiên, câu hỏi là làm thế nào để có thể khuyến khích và hỗ trợ các DNNVV này phát triển trong thực tế? Nhóm nghiên cứu của bộ môn Thể chế nông thôn là đầu mối thực hiện các nghiên cứu khác nhau để trả lời câu hỏi này. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số phát hiện của nhóm nghiên cứu liên quan đến tình hình phát triển của hai loại hình DN là Doanh nghiệp tư nhân gia đình và các Công ty TNHH ở nông thôn và những vấn đề đang đặt ra hiện nay đối với các loại hình DN này. Đây cũng là một trong những kết quả của đề tài nghiên cứu nhỏ được tiến hành ở Hà tây và Vĩnh Phúc. Kết quả này chỉ rõ thêm những lí do và nguyên nhân tại sao các DN ở nông thôn hiện nay khó có khả năng tích lũy vốn và mở rộng sản xuất. Nhiều DN chỉ sau thời gian đăng kí không lâu các hoạt động đã đi vào suy thoái.

Việt Nam: làm gì để đứng vững nếu khủng hoảng tài chính toàn cầu kéo dài?

27-4-2009

Bài viết này đánh giá về cuộc khủng hoảng của hệ thống tín dụng toàn cầu đang xảy ra và những tác động tạm thời lên nền kinh tế Việt Nam trong 2 năm 2008 - 2009 dựa trên giả thuyết cuộc khủng hoảng hiện nay sẽ được kiềm chế trong 6 - 9 tháng tới (với xác suất 80%, 20% xác suất sẽ xảy ra cuộc khủng hoảng lớn hơn). Nếu cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn, sẽ phải xét lại việc đánh giá cho nền kinh tế Việt Nam năm 2009 theo hướng phân tích ảnh hưởng có phân bổ đối với toàn bộ nền kinh tế và thị trường tài chính. Khủng hoảng tín dụng có thể kéo dài hơn 6 tháng nữa