TIN TỨC-SỰ KIỆN

Triển vọng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Châu Á

Ngày đăng: 07 | 09 | 2007

Hiện nay, Việt Nam đang có quan hệ thân mật 15 quốc gia và vùng lãnh thổ ở Châu Á - một thị trường rộng lớn mà nhiều loại hàng hoá của Việt Nam đã có điều kiện tiếp cận sớm nhất.

Đặc biệt, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cùng với việc Mỹ đã thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam, thị trường xuất khẩu của Việt Nam càng được mở rộng. Hoạt động của doanh nghiệp xuất, nhập khẩu cũng như các tổ chức tài chính, ngân hàng cũng ngày càng đa dạng và sôi động hơn…

Tuy nhiên, bên cạnh đó, sự cạnh tranh giữa hàng xuất khẩu của Việt Nam và hàng hoá của các nước khác trên thị trường thế giới cũng ngày càng gay gắt. Xu thế bảo hộ sản xuất trong nước của một số nước thông qua các hình thức đánh thuế chống bán phá giá, vệ sinh an toàn thực phẩm… cũng sẽ là những trở ngại không nhỏ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Theo Bộ Công Thương và các nhà chuyên môn dự báo và đánh giá, thì có ba vấn đề liên quan, tác động tực tiếp sức cạnh tranh và khả năng thâm nhập hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường khu vực các nước châu Á trong những năm tới:

Thứ nhất, trong vài, ba năm đầu, đặc biệt là năm 2007, sẽ không có đột biến tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường khu vực này.Nguyên nhân do giá dầu thế giới biến động không lớn; giá nông sản tăng cao như năm 2006; nạn hạn hán do ảnh hưởng của El Nino đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam; dịch bệnh gia sú, gia cầm còn tiềm ẩn đe doạ đến phát triển ổn định của nền kinh tế; xu thế bảo hộ, chống bán phá giá và rào cản vệ sinh an toàn thực phẩm của nhiều nước được thực thi mạnh.

Thứ hai, khi cánh cửa WTO rộng mở, làn sóng đầu tư mới của doanh nghiệp cũng như của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước chắc chắn tăng cao tạo tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, do hàng nhập khẩu tăng mạnh. Các doanh nghiệp FDI sẽ tăng cường đầu tư để mở rộng sản xuất, tăng vốn. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp FDI đã đầu tư từ các năm trước sẽ bắt đầu có lượng sản phẩm lớn đưa vào xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩutừ các doanh nghiệp FDI tăng, càng khẳng định hơn vai trò của loại hình doanh nghiệp này và chiếm tỷ trọng ngày càng cao hơn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

Thứ ba, kể từ năm 2009 trở đi kim ngạch xuất khẩu vào thị trường châu Á sẽ tăng, có thể ở mức đột biến trong một, hai năm do lúc đó Việt Nam xuất hiện nhiều ngành nghề mới như chế tác kim hoàn, chế tác nữ trang giả kim hoàn (đồ mỹ ký), lắp ráp, sản xuất đồng hồ đeo tay, treo tường và nhiều sản phẩm mới đưa vào xuất khẩu như hàng điện tử, công nghệ thông tin… Mặt khác, các tập đoàn bán lẻ hàng đầu tư thế giới như Dairy Farm, Wall-Mart… tham gia vào hệ thống phân phối tại Việt Nam sẽ tạo ra động lực để cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo thêm ngành nghề mới, mặt hàng mới cho xuất khẩu. Tuy nhiên, cùng với bề dày thời gian hội nhập kinh tế quốc tế thì tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các thị trường truyền thống và láng giềng châu Á sẽ giảm dần, bởi lúc đó Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác trên thế giới ở Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Phi – Tây Nam Á….

Dưới đây là những dự báo tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đối với một số nước tiêu biểu trong khu vực Châu Á.

+Nhật Bản: Ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dầu thô, hải sản, than đá, dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ, dây cáp điện… thị trường Nhật Bản còn có nhu cầu lớn về các loại rau và hoa quả tươi – cái mà Việt Nam có nhiều lợi thế. Với mức tăng bình quân 18%/năm trong giai đoạn 2007-2010 thì đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này sẽ đạt 10 tỷ USD. Ở Châu Á, thị trường Nhật Bản vẫn sẽ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và cùng với Mỹ và EU, Nhật Bản là một trong ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam

+Trung Quốc. Triển vọng đến năm 2020 Việt Nam sẽ xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 6,1 tỷ USD, đứng thứ hai tại thị trường Châu Á, sau Nhật Bản. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm gần đây đã được nâng lên ở tầm cao mới. Hai nước nhất trí phấn đấu đưa kim ngạch buôn bán hai chiều lên 15 tỷ USD vào năm 2010.

+Hàn Quốc: Hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc chưa nhiều vì phải cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc có nhiều lợi thế hơn. Ngược lại, Việt Nam nhập siêu từ Hàn quốc lại khá lớn, trên dưới 2,5 tỷ USD/năm. Dự kiến năm 2007, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 1,05 tỷ USD. Đến năm 2010 Việt Nam sẽ xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc cũng chỉ đạt trên dưới 1,65 tỷ USD.

+Hồng Kông: Với tính chất là thị trường trung gian, dung lượng thị trường nhỏ và việc Việt Nam hướng mở rộng ra các thị trường trên thế giới cho nên mức độ phát triển với Hồng Kông bị hạn chế dần. Năm 2007, kế hoạch phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hồng Kông lên 600 triệu USD, với mức tăng chung là 33% và dự kiến đến năm 2010 đạt khoảng 1 tỷ USD.

+Thái Lan: 7 tháng đầu năm Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan đạt gần 550 triệu USD trong kế hoạch cả năm là 1,15 tỷ USD và dự báo đến năm 2010, cũng chỉ đạt mức 1,85 tỷ USD. Do tính tương đồng về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của hai nước cho nên các mặt hàng nông sản của Việt Nam khó thâm nhập vào thị trường này. Tuy nhiên, Việt Nam-Thái Lan đang tiến tới thiết lập cơ chế hợp tác xuất khẩu gạo để tránh việc cạnh tranh gây thiệt hại của hai nước trên thị trường thế giới.

+Malaysia: Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này có thể phân thành bốn nhóm chính, đó là: nhóm nguyên liệu thô, tăng mạnh nhất (112,4%); nhóm lương thực, thực phẩm tăng 78%; nhóm hàng công nghiệp tăng 51,6%; còn nhóm hàng thủ công mỹ nghệ tăng không đáng kể. 7 tháng đầu năm Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Malaysia đạt hơn 630 triệu USD và dự báo cả năm đạt 1,3 tỷ USD và đến năm 2010 là 2,13 tỷ USD.

Với hai thị trường Cămpuchia và Thái Lan, do hai nước này vừa ít dân, vừa chưa có tốc độ phát triển cao về kinh tế, bên cạnh đó, hàng Việt Nam phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc và Thái Lan cho nên ngày càng khó khăn. Cước phí vận tải đắt hơn so với hàng hàng của Thái Lan. Năng lực doanh nghiệp của Việt Nam chưa đủ mạnh để tổ chức mạng lưới phân phối ngảytên đất Lào và mở rộng snag vùng Đông Bắc Thái Lan. Do vậy, khả năng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các thị trường này có hạn. Do vậy, 7 tháng đầu năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Cămpuchia mới đạt khoảng 570 triệu USD trong dự kiến cả năm 1 tỷ USD.Tương tự với Lào là hơn 60 triệu USD Và 105 triệu USD…

(Theo Vinanet)

NỘI DUNG KHÁC

ASEAN tiếp tục duy trì địa vị là đối tác thương mại lớn nhất của Quảng Tây trong quý 1 năm nay

7-9-2007

Phóng viên từ ngành hải quan Nam Ninh cho biết, quý 1 năm nay, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Quảng Tây đã đạt 1,69 tỷ đô-la Mỹ, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Doanh nghiệp nhỏ vay vốn ngân hàng: Làm gì để hiểu nhau?

7-9-2007

Ngân hàng thừa vốn cho vay, nhưng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện vẫn không vay được.

Các bước tăng tốc Windows Vista

7-9-2007

Chỉ bằng một số thao tác nhanh gọn, người sử dụng có thể tạo nên sự khác biệt lớn về hiệu suất hoạt động của hệ thống chạy trên hệ điều hành mới của Microsoft.

Korea Institute of Science and Technology - Viện nghiên cứu theo hợp đồng

6-9-2007

Năm 1953, Hàn Quốc bước ra khỏi cuộc chiến tranh trong đói nghèo và lạc hậu, thiếu tài nguyên và thiếu vốn. Trong bối cảnh như vậy, chính Phủ Hàn Quốc đã xác định: để phát triển kinh tế thành công, việc đầu tiên là phải phát triển công nghệ. Từ đó, chỉ trong vài thập kỷ, bằng các chủ trương hết sức đúng đắn và các chính sách ưu đãi của chính phủ trong việc tập trung tối đa nguồn lực, để phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ, Hàn Quốc đã vươn lên thành một con rồng Châu á.

Gạo Vĩnh Long: Đẩy mạnh công nghệ, thích ứng linh hoạt, tăng năng lực cạnh tranh

6-9-2007

Ngành công nghiệp xay xát chế biến gạo là một trong những thế mạnh của Vĩnh Long với tốc độ tăng trưởng bình quân từ 15 -18%/năm. Hiện nay, tỉnh Vĩnh Long có trên 600 dây chuyền chế biến lúa gạo có khả năng xay xát từ 1,2 - 1,3 triệu tấn/năm, trong đó nhiều dây chuyền được tự động hóa hoàn toàn góp phần nâng cao giá trị hạt gạo xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Vĩnh Long. Bên cạnh thúc đẩy xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp Vĩnh Long cũng đầu tư, đa dạng sản phẩm gạo chế biến hướng đến thị trường nội địa, tăng năng lực cạnh tranh trên các thị trường.

Một cách phân tích kinh tế Trung Quốc

6-9-2007

Những nước tin rằng quyết định thả nổi có kiểm soát đồng Nhân dân tệ của chính phủ Trung Quốc sẽ giúp họ cân bằng lại được cán cân xuất nhập khẩu có thể sẽ thất vọng.

Trung Quốc bảo vệ uy tín hàng xuất khẩu

6-9-2007

Ông Bạc Quốc Hy cho rằng Trung Quốc là nạn nhân của những thông tin báo chí có thành kiến, phóng đại quá mức vấn đề chất lượng hàng hóa Trung Quốc.

Cửa khẩu Đông Hưng

6-9-2007

Đông Hưng có đường giao thông thủy bộ tiện lợi. Từ Đông Hưng đến thành phố Nam Ninh là 180 km, đến thành phố Hạ Long Việt nam là 180 km, đến Hà Nội 308 km. Từ cảng Trúc Sơn, Đàm Cát và đảo Kinh của Đông hưng có thể tới các bến cảng của vùng hoa nam Trung Quốc và các cảng biển Việt Nam.

Kinh nghiệm vào thị trường Trung Quốc

6-9-2007

Theo ông Vương Long Hổ, nhu cầu của thị trường Trung Quốc rất đa dạng và được xem là thị trường dễ tính do có nhiều tầng lớp dân cư khác nhau, có mức thu nhập cũng khác nhau vì Trung Quốc có tốc độ phát triển của từng khu vực, từng vùng chênh lệch nhau rất rõ

Gia nhập WTO: Đánh giá những tác động

6-9-2007

Gia nhập WTO, Việt Nam đã chấp nhận thực hiện các cam kết mở cửa thị trường và các quy định, luật lệ WTO. Tuy nhiên, do mức độ cam kết cũng như khả năng cạnh tranh khác nhau nên cơ hội và thách thức đối với từng nhóm hàng hoá và từng ngành dịch vụ của Việt Nam khác nhau.

Trung Quốc khan hiếm cao su

6-9-2007

Trung Quốc đang tìm mua cao su giao ngay để làm đầy kho dự trữ, và giá cao su kỳ hạn ở Tokyo tăng trở lại có thể khích lệ các khách hàng khác tăng cường mua cao su - loại dùng sản xuất lốp xe - trước khi giá tăng hơn nữa.

Làm gì để phát triển làng nghề?

6-9-2007

Kinh tế làng nghề đang đóng góp gì cho nền kinh tế VN? Tại sao cùng một môi trường kinh tế - xã hội, nhưng có những làng nghề phát triển mạnh, lại có những làng nghề mai một, thậm chí có nguy cơ biến mất?