TIN TỨC-SỰ KIỆN

"Khoán 10" trong khoa học nông nghiệp - Bài 3: Từ chối thực hiện đề tài tiền tỷ

Ngày đăng: 30 | 05 | 2007

Viện trưởng Viện nghiên cứu thiết kế chế tạo máy nông nghiệp (viết tắt là RIAM, thuộc Bộ Công nghiệp) – TS, Nguyễn Tường Vân thẳng thắn bày tỏ: chúng tôi quyết định dừng không thực hiện đề tài “Hoàn thiện thiết bị làm thức ăn viên cho bò sữa” vì biết rằng sản phẩn làm ra không có thị trường.

Quá trình chuyển đổi tư duy từ bao cấp sang tự chủ, tự chịu trách nhiệm quả là cuộc vận lộn sống còn. Đề tìm lời giải, chúng tôi đã sang Bộ Công nghiệp, ngành đi đầu trong việc thực hiện Nghị định 115. Phó viện trưởng RIAM Trần Đức Trung cho rằng, đó là cả một quá trình “bươm chải” đề tồn tại và phát triển. Từ năm 1990, RIAM chuyển về trực thuộc tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM). Đây là một bước ngoặt đầy gian nan, thử thách bởi không còn dựa được vào nguồn bao cấp của nhà nước. Là một viện khoa học nhưng RIAM hoạt động như một doanh nghiệp, phải nghiên cứu, chế tạo ra sản phẩm. Quan trọng hơn là bán được sản phẩm đó để lấy tiền nuôi sống mình.

Ông Trung nhớ lại: bước ra thị trường mới thấy, đúng là một cuộc sàng lọc ghê gớm với cả những kế hoạch, chiến lược và những “thủ đoạn” trong kinh doanh. Hẫng hụt là cảm giác đầu tiên của tất cả những nhà khoa học quen ngồi trong phòng thí nghiệm. Không còn bấu víu được vào đâu, nhiều cán bộ xin chuyển công tác. Một số tế nhị hơn thì làm đơn xin đi học, rồi họ cũng tạm biệt cơ quan khi học xong. Ban lãnh đạo Viện như ngồi trên đống lửa. Phải làm gì để trước mắt là duy trì viện, chứ chưa tính đến chuyện phát triển mở rộng. Chỉ có một con đường đó là tung cán bộ đi xâm nhập thị trường , nơi nào cần cái gì, bất kể lớn nhỏ, giá trị bao nhiêu là tổ chức cho anh em nghiên cứu, chế tạo ra bằng được để bán. Thực tế, làm khoa học thị trường lúc đó gian nan hơn hiện nay rất nhiều, đặc biệt là sản phẩm của viện lại phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Đầu những năm 90 thế kỷ trước, việc phát triển sản xuất còn chậm, các công ty, trang trại cần máy móc nông nghiệp đếm trên đầu ngón tay. Viện buộc phải tổ chức nghiên cứu sản xuất những sản phẩm đơn giản. Nhưng đối với thiết bị đơn giản, đưa ra thị trường một thời gian là mất mẫu, bị làm nhái tràn lan. Vượt qua những năm tháng ban đầu, cứ từng bước từng bước sau gần 10 năm RIAM đã dần đi vào ổn định. Đến lúc này kinh phí đầu tư của Nhà nước cho khoa học – công nghệ cũng nhiều hơn. Đầu tư nhiều nhưng cơ chế tuyển chọn đề tài không theo kịp khiến nhiều khi các tổ chức khoa học tự chủ thấy “dị ứng” với đề tài nhà nước.

TS. Nguyễn Tường Vân, viện trưởng RIAM kể câu chuyện khiến chúng tôi ngỡ ngàng: Năm 2002 khi phong trào chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh. Viện đã ấp ủ thực hiện đề tài làm dây chuyền sản xuất thức ăn cho bò. Năm 2004, ý tưởng thành hiện thực khi Bộ Khoa học – Công nghệ tổ chức đấu thầu thực hiện đề tài. Tổng vốn đầu tư cho đề tài là 1 tỉ đồng. Với thế mạnh của mình RIAM đã vượt qua cả đơn vị trong ngành nông nghiệp để trúng thầu. Thế nhưng triển khai được một thời gian, RIAM quyết định xin ngừng đề tài. TS. Vân kể: Thuyết trình để được nhận đề tài đã khó, nhưng xin rút không thực hiện còn khó hơn. Thế nhưng RIAM vẫn quyết ngừng bởi nhận thấy nếu tiếp tục thực hiện thì sản phẩm của đề tài không thể đưa ra thị trường. “Cũng nhờ báo NNVN mà chúng tôi mới đưa ra quyết định táo bạo như vậy. Tình cờ tôi đọc được bài báo với cái tít ấn tượng “Nuôi bò sữa như… đua xe công thức 1”, nhận thấy kiểu nuôi bò sữa như một số địa phương đang ồ ạt triển khai trước sau sẽ dẫn đến thất bại. Sau này dự án bò sữa tỉnh Tuyên Quang và hàng loạt địa phương đổ bể mới chứng minh cho quyết định của chúng tôi là đúng. Nếu không còn nơi nào nuôi bò thì mình nghiên cứu, chế tạo dây chuyền sản xuất thức ăn làm gì?”. TS. Vân quả quyết.

Vậy, RIAM đã thẳng thắn từ chối thực hiện đề tài tiển tỷ. Hiện nay, mỗi năm RIAM chỉ thực hiện 5-6 đề tài nhà nước, chiếm 5-10% doanh thu của viện. Nguồn thu chính của viện là từ hợp đồng sản xuất dây chuyền sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến tinh bột sắn….với các công ty TNHH, cổ phần. Mới đây nhất, đầu tháng 1/2007, RIAM đã tiến hành bàn giao nhà máy chế biến tinh bột sắn cho Công ty Sơn Lâm với năng suất sản phẩm đạt trên 50 tấn/ngày, chất lượng tinh bột đạt tiêu chuẩn xuất khẩu… Đây là dây chuyền thứ 5 với thiết bị đa số chế tạo trong nước của RIAM.

Rõ ràng, tư duy của một viện khoa học nhà nước với một viện khoa học tự chủ đã có sự khác biệt lớn. Nhiều nơi lấy việc thực hiện đề tài Nhà nước là phương tiện để kiếm sống. Do vậy, đề tài gì, bất kể lớn bé đơn vị khoa học đó cũng nhận theo kiểu vơ bèo, vạt tép. Ví như mục đích cuối cùng là làm một chiếc máy cấy, đáng ra phải bắt tay vào nghiên cứu, chế tạo chiếc máy thì chủ đề tài xây dựng một dự án đồ sộ, vẽ ra đủ thứ từ khảo sát, học tập kinh nghiệm nước ngoài để lấy tiền ngân sách. Đề tài thì lớn, phức tạp nhưng sản phẩm cuối cùng cũng chỉ là chiếc máy cấy đơn giản.

Phó viện trưởng Trần Đức Trung cho biết: Điều đặc biệt nữa đối với chúng tôi là đội ngũ cán bộ của RIAM. Trong tổng số 120 cán bộ, thì 80% là cán bộ trẻ dưới 35 tuổi. Chính những cán bộ trẻ này đã đem lại chỗ đứng cho RIAM trên thị trường máy nông nghiệp . Do vậy, chuyển sang cơ chế 115 chỉ là bước chuyển mình nhẹ nhàng đối với RIAM. Bởi từ trước đến nay họ đã như những con gà cần mẫn nhặt từng hạt thóc, chứ không chờ “bầu sữa” ngân sách.

Ngọc Tiến

Thứ Tư, 23/5/2007 - số 103 (2688), Nông nghiệp Việt Nam

NỘI DUNG KHÁC

Bài 7. Quản lý hoạt động khoa học công nghệ của Úc và Newzealand

30-5-2007

Qua mô hình quản lý khoa học được coi là tiên tiến hàng đầu thế giới của NEW ZEALAND, chúng ta có thể tìm được phần nào lời giải đáp cho những vấn đề tốn rất nhiều công sức tranh cãi trong quá trình đổi mới cơ chế, chính sách họat động KH&CN ở Việt Nam.

Bài 6. Mô hình Viện trưởng kiêm Chủ tịch HĐQT công ty ở Trung Quốc.

30-5-2007

Giáo sư Lý Bình, Viện trưởng Viện nghiên cứu lúa Tư Xuyên (TQ) vừa tới thăm toà soạn NNVN. Ông là chuyên gia hàng đầu về lúa lai ở Trung Quốc, đồng tác giả giống lúa nổi tiếng D.ưu 527 đang được gieo cấy phổ biến tại mièn bắc Việt Nam. Thế nhưng, câu chuyện của chúng tôi với GS Lý Bình lần này không phải việc nghiên cứu, chọn tạo giống lúa lai mà là cơ chế, kinh nghiệm tổ chức, phát triển khoa học nông nghiệp của Trung Quốc.

Bài 5. “115 không bắt tất cả các nhà khoa học đi kinh doanh”

30-5-2007

Trước những khó khăn của các tổ chức khoa học công nghệ thuộc Bộ NN&PTNT trong quát rình thực hiện Nghị định 11, NNVN đã có cuộc trao đổi thẳng thắn với TS Nguyễn Quân, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ Khoa học và Công nghệ), thành viên BCĐ đề án 115.

Bài 4: 115 trong quán cà phê.

30-5-2007

Trong gần 500 cán bộ, nhân viên của Viện Khoa học Kĩ thuật Nông nghiệp (KHKTNN) miền Nam có khoảng 5% “sống khoẻ” và thêm 5% nữa sống khá. Không kể những cây đa, cây đề”, những người “sống khoẻ” phần lớn có độ tuổi trên 45, đều có thu nhập chính từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tư vấn riêng lẻ, mà những hoạt động ấy đều gắn với những lĩnh vực chuyên môn của mình.

Bài 3: Từ chối thực hiện đề tài tiền tỷ.

30-5-2007

Viện trưởng Viện nghiên cứu thiết kế chế tạo máy nông nghiệp (viết tắt là RIAM, thuộc Bộ Công nghiệp) – TS, Nguyễn Tường Vân thẳng thắn bày tỏ: chúng tôi quyết định dừng không thực hiện đề tài “Hoàn thiện thiết bị làm thức ăn viên cho bò sữa” vì biết rằng sản phẩn làm ra không có thị trường.

Bài 2: Một đề tài 9 chữ ký.

30-5-2007

Đó là thực tế trong công tác quản lý khoa học nông nghiệp hiện nay. Tại hội nghị triển khai kế hoạch khoa học – công nghệ năm 2007 của ngành NN – PTNT, hàng loạt yêu cầu đã được đưa ra đối với các nhà khoa học . Trong đó, vấn đề sống còn là phải trả lời được câu hỏi: Chúng ta làm được gì cho nông dân khi tiêu cả trăm tỉ đồng mỗi năm.

“Khoán 10” trong khoa học nông nghiệp: Thực hiện không nổi….vì sao?

29-5-2007

Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập được ban hành ngày 5/9/2005, sau đó đã có Thông tư liên tịch số 12/2006/TTLT/BKHCN-BTC-BNV ra ngày 5/6/2006 hướng dẫn thi hành Nghị định này. Tuy nhiên cho tới nay, sau gần 2 năm được ban hành, việc thực hiện Nghị định 115 vẫn gặp rất nhiều khó khăn.

“Khoán 10” trong khoa học nông nghiệp: Thực hiện không nổi….vì sao?

29-5-2007

Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập được ban hành ngày 5/9/2005, sau đó đã có Thông tư liên tịch số 12/2006/TTLT/BKHCN-BTC-BNV ra ngày 5/6/2006 hướng dẫn thi hành Nghị định này. Tuy nhiên cho tới nay, sau gần 2 năm được ban hành, việc thực hiện Nghị định 115 vẫn gặp rất nhiều khó khăn.

Thức ăn chăn nuôi sẽ tiếp tục tăng giá

28-5-2007

Theo thống kê của Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thì hiện nay, nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước chỉ đáp ứng được 70% so với nhu cầu. Số còn lại phải nhập khẩu chiếm 45% tổng giá trị nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp.

Tư tưởng chủ đạo trong quản lý khoa học là phục vụ tốt nhất cho hoạt động của các nhà khoa học và tổ chức khoa học công nghệ

25-5-2007

Tại cuộc hội thảo Hoạt động khoa học và công nghệ: Thực trạng và giải pháp do tạp chí Tia Sáng tổ chức vừa qua, nhiều nhà khoa học cho rằng lĩnh vực quản lý khoa học những năm gần đây, đặc biệt là trong năm 2006, đã có những chuyển biến tích cực với những bước đi đúng hướng. Tạp chí Tia Sáng đã có cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Văn Phong về vấn đề này.

Quản lý KHCN: Đổi mới không dễ dàng

25-5-2007

Việc áp dụng Nghị định 115 sẽ đụng chạm đến quyền lợi, cuộc sống vật chất và tinh thần của hơn 5.000 cán bộ nghiên cứu khoa học ở hàng chục viện và trung tâm nghiên cứu trong cả nước. Có những cán bộ từ lâu chuyên tâm nghiên cứu công nghệ thì nay phải tìm hiểu về thị trường, về khách hàng, giá cả... Nhiều cán bộ lãnh đạo trăn trở trước bài toán khó là phải chịu trách nhiệm về mọi thành công, thất bại của đơn vị và cả của cá nhân cán bộ, trong khi về pháp lý và tình cảm thì không có cơ chế để đưa người tài vào đơn vị, loại bỏ những người không đáp ứng yêu cầu ra khỏi cơ quan...