ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Kiểm toán chất thải và một số giải pháp thúc đẩy triển khai áp dụng ở Việt Nam

Ngày đăng: 24 | 08 | 2011

Thời gian qua, mặc dù đã tích cực thực hiện nhiều biện pháp, nhưng xu hướng ô nhiễm môi trường ở nước ta vẫn tiếp tục gia tăng. Nguyên nhân chính là do các giải pháp phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm chưa được thực hiện một cách hiệu quả và đồng bộ. Công tác quản lý chất thải ở các cơ sở sản xuất mới chỉ tập trung vào xử lý ở “cuối đường ống” mà chưa chú trọng đến các giải pháp phòng ngừa ngăn chặn tại nguồn. Một trong những công cụ để kiểm soát, giảm thiểu phát sinh chất thải gây ô nhiễm môi trường trong các cơ sở sản xuất là kiểm toán chất thải (KTCT). Bài viết này sẽ giới thiệu về KTCT và một số giải pháp triển khai, áp dụng ở nước ta.

Kiểm toán chất thải là gì?

Cùng với sản xuất sạch hơn, kiểm toán chất thải (KTCT) là công cụ quản lý môi trường nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa ô nhiễm ngay từ quá trình sản xuất tại cơ sở công nghiệp. KTCT bao gồm việc rà soát, kiểm tra các quá trình sản xuất, xác định nguồn thải và khối lượng chất thải, tính toán cân bằng vật chất, xác định các vấn đề trong vận hành sản xuất, để từ đó đề ra các giải pháp để giảm thiểu phát sinh chất thải ra môi trường. Có thể nói KTCT là một lĩnh vực chuyên sâu của kiểm toán môi trường (KTMT) đã được tiêu chuẩn hoá bằng ISO 14010 và ISO 14011:1996.

Mặc dù, được thể hiện khác nhau ở nhiều nước, song một quy trình KTCT thường được thực hiện với các bước: Khảo sát quá trình, thu thập số liệu về đầu vào, đầu ra của các công đoạn sản xuất như nguyên liệu, năng lượng, nước và sản phẩm; Xác định loại hình, nguồn, khối lượng chất thải; Nghiên cứu tính toán cân bằng vật chất; Xác định các nguyên nhân gây gia tăng chất thải; Nghiên cứu, đề xuất và xác định hiệu quả kinh tế của các giải pháp giảm thiểu chất thải; Thực hiện các giải pháp giảm thiểu phát sinh chất thải.

KTCT có thể do một nhóm kiểm toán độc lập hoặc cũng có thể do chính bản thân doanh nghiệp thực hiện, với sự tham gia của một đơn vị quan trắc, phân tích môi trường. Các yếu tố cần thiết cho việc thực hiện thành công KTCT tại cơ sở công nghiệp bao gồm: Sự cam kết hợp tác, quyết tâm cải thiện ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp; Xác định được quy mô, trọng tâm của kiểm toán; Đề xuất được các giải pháp khả thi, đảm bảo tính kinh tế khi thực hiện.

Nếu thực hiện KTCT tốt thì không chỉ sẽ giảm thiểu sự phát sinh chất thải ra môi trường, giảm thiểu ô nhiễm mà còn tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nước, giảm sự lãng phí tài nguyên, đem lại giá trị kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đặc biệt, thực hiện KTCT cũng sẽ góp phần giảm phát thải khí nhà kính, làm giảm nhẹ biến đổi khí hậu hiện là vấn đề  nóng trên thế giới.

Áp dụng KTCT ở một số nước trên thế giới

Từ năm 1980, trên thế giới đã có nhiều nước nghiên cứu và ứng dụng về  KTCT. Quy trình KTCT đối với từng ngành đã được lập, nhiều tài liệu, sách về KTCT đã được xuất bản.

Ở Ôxtrâylia, KTCT trong các ngành công nghiệp đã được giới thiệu như là một công cụ hỗ trợ cho việc quản lý chất thải, bên cạnh các công cụ khác như sản xuất sạch hơn và đánh giá vòng đời sản phẩm. Cục Các ngành công nghiệp cơ bản, Công viên, Nước và Môi trường của bang Tasmania, Ôxtrâylia khuyến cáo các doanh nghiệp nên sử dụng KTCT, với các nội dung như xác định các nguồn thải; số lượng và các loại chất thải được tạo ra; xác định nguyên nhân làm gia tăng chất thải; Thiết lập các mục tiêu/giải pháp và thứ tự ưu tiên cho việc giảm phát sinh chất thải.

Một số ngành công nghiệp đặc thù gây tổn hại tới môi trường như khai thác mỏ, sản xuất hóa chất thì được khuyến khích tuân thủ theo các Quy chế về Thực hành quản lý môi trường tốt nhất (BPEM) được chính quyền Ôxtrâylia thiết kế riêng cho mỗi ngành. Ví dụ, như đối với ngành khai thác mỏ đã được Cục bảo vệ môi trường Ôxtrâylia ban hành năm 1995, trong đó bao gồm cả quy định về KTCT và nộp báo cáo kiểm toán hàng năm.

Bỉ là thành viên của Cộng đồng Châu Âu (EU) nên phải tuân thủ những quy định về môi trường do EU  ban hành, trong đó có Quy trình kiểm toán quản lý sinh thái (EMAS), năm 2001. Đến năm 2004, đã có 150 doanh nghiệp ở các tỉnh thuộc vùng Flanders của Bỉ tham gia thực hiện EMAS và sau đó là 22 doanh nghiệp khác. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp đã tự nguyện áp dụng các quy trình này không chỉ với mục đích để đạt được các chứng chỉ môi trường. Một trong những công ty đầu tiên của Bỉ thực hiện KTCT là công ty Shred it Belgium. Công ty này, năm 2007, đã tái chế 1.650 tấn chất thải và thực hiện tính toán “Dấu chân Carbon”, làm giảm lượng carbon từ hoạt động vận tải, trở thành công ty đầu tiên của Bỉ đạt CO2 trung tính.

Tại Canada, theo quy định Ontario 102/94 của Bộ Môi trường và Năng lượng, các cơ sở sản xuất bắt buộc thực hiện KTCT. Quy định này cũng nêu rõ các cơ sở giáo dục, bệnh viện, nhà nghỉ khách sạn, cở sở sản xuất, các tòa nhà công sở, nhà hàng và các cơ sở bán hàng phải thực hiện chương trình giảm thiểu chất thải bao gồm 4 bước trong đó có thực hiện KTCT; Thời gian một báo cáo KTCT phải được lưu trữ dưới dạng file ít nhất 5 năm và phải chỉ ra được loại vật liệu hoặc sản phẩm nào được doanh nghiệp sử dụng là vật liệu hoặc sản phẩm tái chế. Bên cạnh đó, Canada rất chú trọng tới việc xem xét quy trình sản xuất của doanh nghiệp như là một thông tin đầu vào để thực hiện kiểm toán, từ đó đề xuất các khâu có thể giảm thiểu chất thải cũng như nguyên liệu sản xuất.

Ở Ấn Độ, khái niệm KTMT trong ngành công nghiệp chính thức được giới thiệu từ tháng 3/1992 với mục đích chung là giảm sự lãng phí tài nguyên và thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch nhằm giảm thiểu phát thải. Bộ Môi trường và Rừng đã ban hành thông tư số GSR 329(E) vào tháng 3/1992 đưa ra yêu cầu bắt buộc nộp Báo cáo KTMT hàng năm đối với các cơ sở công nghiệp, trong đó phải thể hiện các thông tin về quản lý từng nguồn thải. Để thúc đẩy hoạt động KTMT, Ban Kiểm soát ô nhiễm quốc gia (CPCB) đã tổ chức tập huấn, đào tạo, thực hiện các mô hình trình diễn và xây dựng hướng dẫn KTMT cho các ngành công nghiệp ô nhiễm cao như thuốc bảo vệ thực vật, giấy và bột giấy, đồ uống, dệt nhuộm.

Đối với Thái Lan, hoạt động KTCT đã nhận được sự quan tâm của nhiều tổ chức và doanh nghiệp. Viện Công nghệ Châu Á (AIT) đã đưa nội dung này vào đạo tạo từ những năm đầu thập kỷ 90. Các dự án KTCT cũng đã thực hiện ở nhiều nhà máy công nghiệp thuộc các lĩnh vực khác nhau như sản xuất  bánh kẹo, tinh bột, giấy, cao su…

Ở Singapore, KTCT được cụ thể hóa như là 1 chiến lược tối thiếu hóa phát sinh chất thải (Waste Minimisation for Industries), thường bao gồm 8 bước: Cam kết của lãnh đạo; Lựa chọn nhóm/bộ phận làm việc về tối thiểu hóa phát sinh chất thải; Thực hiện kiểm toán chất thải; Xác định chi phí của việc giảm phát sinh chất thải; Phát triển, xây dựng các phương án giảm thiểu chất thải; Đánh giá khả năng tiết kiệm và sắp sắp ưu tiên các lựa chọn/giải pháp; Xây dựng kế hoạch giảm thiểu chất thải; Thực thi và cải tiến kế hoạch.

Hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp thực hiện chiến lược tối thiểu hóa chất thải như Baxter Healthcare Pte Ltd, Chevron Oronite Pte Ltd, IMM Singapore Pte Ltd, Kyoei Engineering Singapore Pte Ltd, Sony Display Device Pte Ltd, Tetra Pak Jurong Pte Ltd,….

Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan và nhiều nước khác, các hoạt động KTCT được lồng ghép trong các công cụ kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm như sản xuất sạch hơn, KTMT, đánh giá vòng đời sản phẩm. Mục tiêu chính của các công cụ này là nhằm hướng đến giảm thiểu phát sinh, kiểm soát ô nhiễm do chất thải gây ra.

Tình hình nghiên cứu và áp dụng KTCT ở nước ta

Ở Việt Nam hiện nay, KTMT và KTCT đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học và cao đẳng trong cả nước, song chưa nhiều và mới chỉ dừng ở các vấn đề tổng quát mà chưa đi sâu vào các lĩnh vực cụ thể. Việc áp dụng KTCT trong các cơ sở sản xuất cũng chỉ mới dừng ở một số dự án thí điểm như Dự án “Kiểm soát ô nhiễm môi trường” của UNDP năm 1995 ở một số nhà máy ở TP.Việt Trì và TP. Biên Hòa; đề tài “Điều tra, đánh giá đề xuất việc KTCT công nghiệp tại 05 khu công nghiệp, khu chế xuất” của Cục Bảo vệ Môi trường năm 2005; đề tài “Nghiên cứu áp dụng KTCT trong công nghiệp quốc phòng” của Trung tâm khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự (Bộ Quốc phòng) năm 2004; đề tài “KTCT tại các làng nghề tái chế kim loại và đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm” của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường - Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2005; nghiên cứu và áp dụng thí điểm về KTCT cho nhà máy giầy Thượng Đình, Hà Nội và Công ty TNHH thuộc da Đông Hải do Tổng cục môi trường thực hiện năm 2008.

Nguyên nhân của tình trạng số lượng doanh nghiệp áp dụng KTCT cũng như sản xuất sạch hơn (ISO 14000) còn thấp là do Nhà nước chưa có những chính sách cụ thể để trực tiếp hoặc gián tiếp bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. Ngoài ra, nhận thức và hiểu biết về KTCT và các lợi ích mà nó mang lại cũng chưa cao. Các quy trình KTCT chưa được nghiên cứu, xây dựng cho các ngành công nghiệp như một số nước trên thế giới. Các sổ tay hướng dẫn kỹ thuật về KTCT chưa được ban hành và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ở nước ta cũng chưa có các nghiên cứu đề xuất chính sách khuyến khích áp dụng KTCT trong quản lý môi trường.

Một số giải pháp

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nguồn tài nguyên đang bị khai thác, sử dụng không bền vững, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, trên thế giới đã hình thành trào lưu tăng trưởng xanh với mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Ở nước ta, với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, ô nhiễm môi trường do chất thải sẽ ngày càng gia tăng. Vì vậy, việc áp dụng các công cụ phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, trong đó có KTCT đang là một yêu cầu cấp thiết.

Để đẩy mạnh triển khai áp dụng KTCT, về phía các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau:

Xây dựng Sổ tay hướng dẫn KTCT cho ngành công nghiệp nói chung và cho một số ngành công nghiệp nói riêng. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục, nâng cao nhận thức về KTCT. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển dịch vụ tư vấn về KTCT.

Nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích/bắt buộc áp dụng KTCT trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đảm bảo một lộ trình nhất định để các doanh nghiệp có thể nắm bắt được rõ các quy định cũng như có phương án chuyển đổi, thay thế và điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với điều luật quy định.

Cần có các chế tài khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tự nguyện áp dụng và cơ chế thực hiện thúc đẩy hoạt động KTCT thông qua cạnh tranh theo hình thức dịch vụ.

Xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về chất thải và KTCT. Áp dụng các tiêu chuẩn mà các nước đã áp dụng nhằm thống nhất quản lý chất thải.

Đối với các doanh nghiệp, cần chủ động nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng KTCT trong các hoạt động sản xuất của mình để hướng tới bảo vệ môi trường và tiết kiệm các chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Để góp phần thực hiện các giải pháp này, từ năm 2009, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường giao tổ chức triển khai thực hiện Dự án Áp dụng thử nghiệm KTCT trong quản lý môi trường ngành công nghiệp Việt Nam”, thực hiện trong 3 năm 2009-2012. Dự kiến, Dự án sẽ nghiên cứu, xây dựng Sổ tay KTCT cho ngành công nghiệp nói chung và 10 ngành công nghiệp nói riêng, đồng thời hướng tới xây dựng chính sách yêu cầu các doanh nghiệp phải triển khai KTCT, sử dụng KTCT như một công cụ kiểm soát ô nhiễm trong thời gian tới.

 

TS. Nguyễn Trung Thắng

Nguyễn Ngọc Tú

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

(Theo Tạp chí Môi trường,  Số 7- 2011)

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Kiểm toán môi trường, Phạm Thị Việt Anh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006
  2. Giáo trình KTCT công nghiệp, Trịnh Thị Thanh, Nguyễn Thị Hà (2000), NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
  3. Department of Primary Industries, Parks, Water and Environment, Tasmania, Australia, 2010.
  4. Australia and New Zealand Standards (AS/NZS), 2003, ISO 19011:2003  Guidelines for Quality management systems auditing and Environmental management systems auditing.
  5. European Commission, LIFE III programme, 2000-2004, A sustainable approach for the environment – LIFE and the Community Eco-Management and Audit Scheme (EMAS).
  6. Flanders Investment and Trade, 2008.
  7. Ontario Waste Management Cooperation, 1993, Industrial Waste Audit and Reduction Manual.
  8. Ministry of Environment and Energy, July 2008, A Guide to Waste Audits and Waste Reduction Work Plans for Industrial, Commercial and Institutional Sectors.
  9. INTOSAI, 2004. Environmental Audit and Regularity Auditing.
  10. INTOSAI and EUROSAI, 2009. Environmental Auditing Guidelines. Joint seminar on raising awareness of ISSAIs. 28-29 October 2009 in Warsaw, Poland.
  11. Auditing changes in Japan: from the minor to the major, Hiroshi Yoshimi. Critical Perspectives on Accounting (2002).
  12. Environmental auditing programme in India, R.S. Mahwar” , N.K. Verma, S.P. Chakrabarti, D.K. Biswas. The Science of the Total Environment 204 (1997).
  13. WASTE AUDIT IN A TAPIOCA STARCH MILK PROCESSING FACTORY. Rames Seejuhn.Asian Institute of Technology, 2002.

NỘI DUNG KHÁC

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất mô hình, quy trình lượng giá kinh tế thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây ra phù hợp với điều kiện Việt Nam

28-8-2011

Trong những năm vừa qua, ở nước ta cùng với sự tăng trưởng kinh tế, ô nhiễm và suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước mặt, ô nhiễm không khí ở các khu đô thị, các khu công nghiệp và các làng nghề ở khu vực nông thôn.

Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất các tiêu chí xác định các khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt

4-9-2011

Để tồn tại và phát triển, con người cần phải có lương thực, thực phẩm để tiêu dùng, trong đó nhu cầu tiêu thụ lương thực là cơ bản nhất. Với dân số ngày càng tăng trên thế giới (đặc biệt ở các quốc gia Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh,…), nhu cầu về lương thực không ngừng tăng lên, trong khi diện tích canh tác lương thực trên thế giới đang có xu hướng bị thu hẹp. Đây là một thách thức lớn đối với vấn đề an ninh lương thực toàn cầu.

Tóm tắt đề tài Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai

12-9-2011

Đất đai là vấn đề hệ trọng của đất nước. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta coi đất đai là một trong những mục tiêu đấu tranh cách mạng, đánh giá đúng vai trò, vị trí của đất đai nên trong mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách đất đai phù hợp, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Nghiên cứu ban đầu cơ sở lý luận về chia sẻ tài nguyên nước nhằm đề xuất xây dựng dự án về chia sẻ tài nguyên nước công bằng, hiệu quả các nguồn nước hiện có tại Việt Nam

13-9-2011

Nước là một nguồn tài nguyên vô cùng cần thiết cho phát triển kinh tế, xã hội và là một thành phần không thể thiếu của hệ sinh thái. Nước phân bố trên thế giới rất không đồng đều theo không gian và thời gian. Sự thiếu hụt và phân bố không đều về nguồn nước tạo ra các mâu thuẫn về nước ở các cấp độ địa phương, vùng hay thậm chí ở cấp độ quốc tế.

Khái quát về phân công quản lý nhà nước, phân công quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên môi trường trên thế giới và liên hệ với Việt Nam

15-10-2011

Quản lý nhà nước là một hoạt động cơ bản của bất kì một nhà nước nào, dù là theo chính thể nào đi nữa. Hoạt động quản lý nhà nước đã song hành kể từ khi nhà nước ra đời và sẽ còn tiếp tục chừng nào mà nhà nước còn tồn tại. Để hoạt động này vận hành tốt đòi hỏi có nhiều thành tố như nguồn nhân lực, bộ máy tổ chức, phương thức hoạt động, sự phối hợp giữa các cơ quan...

Nghiên cứu, tổng hợp kết quả điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản phục vụ xây dựng chiến lược, chính sách về tài nguyên khoáng sản và bảo tồn di sản địa chất

15-10-2011

Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực quan trọng để công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là nguyên liệu cho rất nhiều ngành kinh tế như sản xuất năng lượng, vật liệu xây dựng, các kim loại, các khoáng chất công nghiệp phục vụ công nghiệp và nông nghiệp.

Tăng trưởng xanh và một số định hướng ưu tiên cho Việt Nam

23-10-2011

Tăng trưởng xanh với nhiều cách tiếp cận và cũng bao gồm nhiều nội dung, mà tùy theo mỗi điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi thời kỳ có thể lựa chọn thực hiện.

Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế theo hướng nền kinh tế xanh ở Việt Nam

24-10-2011

Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới phát triển “Nền kinh tế xanh” là hướng tiếp cận mới, tuy nhiên xét về dài hạn đây là hướng tiếp cận phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu

Những bất cập trong chính sách đối với nguồn thu tiền sử dụng đất và thuế đất ở Việt Nam

1-2-2012

Đất đai là một nguồn tài nguyên quan trọng của mỗi quốc gia, việc sử dụng nguồn tài nguyên đó như thế nào cho hiệu quả trong hoạt động kinh tế phụ thuộc rất lớn vào thu tiền sử dụng đất và chính sách thuế, hai nội dung này có mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

Nghiên cứu, đề xuất cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường ngoài tòa án ở Việt Nam

24-11-2015

Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã phát sinh nhiều vụ khiếu nại, tranh chấp về môi trường, điển hình như các vụ Vê-đan, Mi-won, Tung Kuang, Sonadezi, Nicotex Thanh Thái… Tuy nhiên, việc giải quyết, xử lý các tranh chấp môi trường (TCMT) còn mang nặng tính hành chính, dẫn đến trình trạng khiếu nại kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân và khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Nghiên cứu, đề xuất quy trình lồng ghép biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ngành tài nguyên môi trường

7-1-2016

Biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề lớn mà nhân loại đang phải đối mặt, tác động mạnh đến mọi mặt phát triển của xã hội. Là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách ứng phó. Một trong những yêu cầu đặt ra là phải chủ động lồng ghép các vấn đề BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (CQK) phát triển của các ngành, lĩnh vực. Bài viết này giới thiệu kết quả nghiên cứu đề xuất quy trình lồng ghép BĐKH vào CQK ngành tài nguyên môi trường (TNMT).