ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Những điểm mới về giá đất trong Luật Đất đai năm 2024

Ngày đăng: 11 | 06 | 2024

Giá đất là một trong những nội dung quan trọng bởi sự ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và quyết định đến việc khai thác những lợi ích kinh tế từ đất đai theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều quy định về giá đất trong Luật Đất đai năm 2013 còn nhiều bất cập, dẫn đến “Giá đất được xác định thưởng thấp hơn nhiều so với giá đất trên thị trường. Chưa xử lý triệt để tình trạng chênh lệch giá đất giáp ranh giữa các địa phương. Chưa có chế tài xử lý hành vi sai phạm trong xác định giá đất, đấu giá quyền sử dụng đất” (1). Do đó, Luật Đất đai năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung thay thế nhiều quy định về giá đất còn hạn chế, bất cập trong Luật Đất đai năm 2013 với mục tiêu hướng đến khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai cho phát triển bền vững. Trong phạm vi bài viết, tác giả nêu bật một số sửa đổi, bổ sung trong Luật Đất đai năm 2024 về giá đất (tại mục 2, Chương XI (từ Điều 158 đến Điều 162); đồng thời chỉ ra những nội dung cần tiếp tục được làm rõ trong thời gian tới để đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình áp dụng.

Nguyên tắc xác định giá đất

    Nguyên tắc định giá đất là nội dung cốt lõi, chi phối toàn bộ quá trình xác định giá đất. Điều này đã được quy định tại Điều 112 Luật Đất đai năm 2013, theo đó việc xác định giá đất phải dựa trên 4 nguyên tắc sau: “a) Theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá; b) Theo thời hạn sử dụng đất; c) Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất; d) Cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau”. Tuy nhiên, các nguyên tắc trên khi áp dụng đã gặp nhiều khó khăn, như: sự mơ hồ, không rõ ràng trong việc xác định tính “phù hợp” với giá đất phổ biến trên thị trường, đặc biệt, trong bối cảnh cơ sở dữ liệu về giá đất giao dịch thực tế trên thị trường chưa hoàn thiện, chưa có cơ chế kiểm soát hữu hiệu tình trạng giao dịch “2 giá”…; hay khi áp dụng nguyên tắc “theo thời hạn sử dụng đất” thì việc xác định giá đất sẽ được thực hiện như thế nào, có được hiểu thời gian sử dụng càng dài thì giá đất sẽ cao hơn hay không... Những vướng mắc trên cũng phần nào cho thấy, mặc dù các cơ quan quản lý nhà nước về định giá đất đã rất cố gắng song giá đất do Nhà nước quy định so với giá đất giao dịch trên thị trường luôn có sự chênh lệch khá lớn(2). Sự chênh lệch này đã gây ra nhiều bức xúc trong xã hội, nhất là công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất. Thực tế đó đòi hỏi cần có những giải pháp đồng bộ để giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với giá giao dịch trên thị trường. Do đó, tại khoản 1 Điều 158 Luật Đất đai năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc chi phối các chủ thể tham gia trong quá trình định giá đất phải tuân theo như sau: (i) Phương pháp định giá đất theo nguyên tắc thị trường; (ii) Tuân thủ đúng phương pháp, trình tự, thủ tục định giá đất; (iii) Bảo đảm trung thực, khách quan, công khai, minh bạch; (iv) Bảo đảm tính độc lập giữa tổ chức tư vấn xác định giá đất, Hội đồng thẩm định bảng giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể và cơ quan hoặc người có thẩm quyền quyết định giá đất; (v) Bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Việc sửa đổi trên đã phản ánh đúng bản chất của nguyên tắc định giá đất và có sự phân định rõ ràng giữa nguyên tắc và căn cứ định giá đất, những nguyên tắc về thị trường, công khai, minh bạch, trung thực, khách quan và độc lập đã được quy định cụ thể . Đây là định hướng quan trọng cho công tác định giá đất để hướng tới những thay đổi mạnh mẽ về gía đất trong bảng giá đất và giá đất cụ thể, góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 18-NQ/TW đã đề ra. Tuy nhiên, nội hàm của nguyên tắc thị trường được xác định và được thể hiện trong các quy định về trình tự, nội dung xác định giá đất theo từng phương pháp như thế nào? Điều này cũng là một trong những nội dung cần được làm rõ khi ban hành văn bản hướng dẫn thi hành về giá đất quá trình định giá đất để đảm bảo sự thống nhất áp dụng giữa các địa phương sau này.

Căn cứ định giá đất

    So với Luật Đất đai năm 2013, tại khoản 2 Điều 158 Luật Đất đai năm 2024 đã bổ sung quy định về căn cứ định giá đất trên cơ sở chuyển một số quy định trước đây là nguyên tắc định giá đất để đảm bảo tính phù hợp khi áp dụng. Theo đó, khi xác định giá đất phải dựa trên các căn cứ sau: “a) Mục đích sử dụng đất được đưa ra định giá; b) Thời hạn sử dụng đất. Đối với đất nông nghiệp đã được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân theo hạn mức giao đất nông nghiệp, đất nông nghiệp trong hạn mức nhận chuyển quyền thì không căn cứ vào thời hạn sử dụng đất; c) Thông tin đầu vào để định giá đất theo các phương pháp định giá đất; d) Yếu tố khác ảnh hưởng đến giá đất; đ) Quy định của pháp luật có liên quan tại thời điểm định giá đất”. Tuy nhiên, trong số các căn cứ trên vẫn cần bàn luận một số vấn đề:

    Một là, căn cứ “thời hạn sử dụng đất”. Trước đây “thời hạn sử dụng đất” là một trong những nguyên tắc định giá đất tại Điều 112 Luật Đất đai năm 2013; còn trong Luật Đất đai năm 2024 được xác định là một trong những căn cứ để định giá đất, nhưng căn cứ trên sẽ không áp dụng “Đối với đất nông nghiệp đã được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân theo hạn mức giao đất nông nghiệp, đất nông nghiệp trong hạn mức nhận chuyển quyền”. Điều này phù hợp với thực tiễn xác định giá đất trong thời gian qua khi cũng không chịu sự chi phối của yếu tố thời hạn sử dụng đất; đặc biệt, đối với đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân sử dụng khi chỉ căn cứ vào loại đất và vị trí đất. Tuy nhiên, để việc áp dụng căn cứ trên được thống nhất, sắp tới trong Nghị định của Chính phủ về giá đất cũng cần quy định chi tiết đối với căn cứ “thời hạn sử dụng đất” có ảnh hưởng thế nào đối với kết quả định giá; đối với một số loại đất có thời hạn sử dụng ổn định lâu dài như đất ở thì căn cứ này này sẽ tác động ra sao. Với những thửa đất có thời hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm, 30 năm hay 50 năm, 70 năm sẽ được định giá như thế nào.

    Hai là, căn cứ “thông tin đầu vào để định giá đất theo các phương pháp định giá đất”. Để đạt được mục tiêu trong việc rút ngắn khoảng cách giữa giá đất thị trường và giá đất do Nhà nước ban hành, khi xác định giá đất, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ trên các “thông tin đầu vào để định giá đất theo các phương pháp định giá đất” (điểm c khoản 2 Điều 158). Cụ thể, thông tin đầu vào để định giá đất theo các phương pháp định giá đất bao gồm: “a) Giá đất được ghi nhận trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, cơ sở dữ liệu quốc gia về giá; b) Giá đất được ghi trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính; c) Giá đất thu thập qua điều tra, khảo sát đối với trường hợp chưa có thông tin giá đất trên thị trường hoặc trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, cơ sở dữ liệu về giá; d) Thông tin về doanh thu, chi phí, thu nhập từ việc sử dụng đất”. Tuy nhiên, khi căn cứ vào giá đất được ghi trong hợp đồng sẽ không thực sự hiệu quả nếu giá đất ghi trên hợp đồng thấp hơn giá thực tế giao dịch. Thực tế này đã gây ra không ít khó khăn cho các cơ quan, tổ chức khi thu thập thông tin phục vụ định giá đất, xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; đồng thời cũng thất thu cho ngân sách nhà nước khi thực hiện thu thuế từ các giao dịch trên. Để khắc phục điều này này, tại điểm d khoản 1 Điều 159 Luật Đất đai năm 2024 đã sửa đổi quy định theo hướng bảng giá đất do Nhà nước xây dụng là căn cứ tính thuế chuyển quyền sử dụng đất mà không dựa trên giá đất được ghi trên hợp đồng. Với quy định trên, hy vọng trong thời gian tới người sử dụng đất khi thực hiện chuyển quyền sử dụng đất sẽ ghi đúng giá giao dịch thực tế trên hợp đồng, tạo sự minh bạch về giá trong các giao dịch về đất đai ở nước ta; đây cũng là cơ sở quan trọng để xác định được giá đất Nhà nước tiệm cận được với giá thị trường. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra, nếu người sử dụng đất tiếp tục không ghi nhận giá trị thật trong các giao dịch thì cơ chế để xử lý, kiểm soát trong trường hợp này như thế nào trong khi việc xác định nghĩa vụ thuế đã được căn cứ vào bảng giá đất của Nhà nước và khi giá đất được ghi trong hợp đồng không phản ánh giá trị thật khi giao dịch thì công tác xác định giá đất sẽ khó đạt được hiệu quả cao.

    Ba là, căn cứ “yếu tố khác ảnh hưởng đến giá đất”. Căn cứ này có tính chất “dự phòng”, bao quát được căn cứ cứ phát sinh mà có ảnh hưởng đến việc định giá. Tuy nhiên, “yếu tố khác” này sẽ được hiểu là yếu tố xuất hiện khi hoàn cảnh khách quan thay đổi như chính sách, pháp luật thay đổi… hay là các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chiến lược phát triển của các vùng, phong tục tập quán của địa phương… Theo quan điểm của tác giả, nếu căn cứ này không được làm rõ sẽ rất dễ gây ra vướng mắc, khó khăn trong thực tế triển khai.

    Ngoài ra, đối với căn cứ “quy định của pháp luật có liên quan tại thời điểm định giá” theo quan điểm của tác giả cũng cần được quy định, hướng dẫn cụ thể để cho thấy một khung pháp lý đầy đủ, rõ ràng khi thực hiện định giá đất của cơ quan có thẩm quyền.

Bảng giá đất và giá đất cụ thể

    Để đảm bảo giá đất Nhà nước không xa rời thực tế và cụ thể hoá quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 18-NQ/TW về “Bỏ khung giá đất”, Luật Đất đai năm 2024 đã có sự thay đổi lớn về vấn đề này. Theo đó, Luật Đất đai năm 2024 đã bỏ "khung giá đất" của Chính phủ và quy định giá đất do Nhà nước ban hành bao gồm "bảng giá đất" (Điều 159), “giá đất cụ thể” (Điều 160). Việc xây dựng bảng giá đất và giá đất cụ thể trong Luật Đất đai năm 2024 cũng có một số sửa đổi, bổ sung nổi bật sau:

    Một là, về thời hạn áp dụng bảng giá đất (khoản 3 Điều 159): Theo quy định tại khoản 3 Điều 159 Luật Đất đai năm 2024, bảng giá đất được xây dựng hàng năm và "bảng giá đất lần đầu" được công bố, áp dụng từ ngày 01/01/2026 và được điều chỉnh từ ngày 1/1 của năm tiếp theo. Từ ngày 01/01/2026 bảng giá đất sẽ được công bố và áp dụng hằng năm; với quy định bảng giá đất được xây dựng đến từng thửa đất trên cơ sở vùng giá trị, thửa đất chuẩn tại các địa phương đã có bản đồ địa chính số và cơ sở dữ liệu giá đất sẽ tạo nên những thay đổi đáng kể về bảng giá đất được xây dựng phù hợp thị trường, phản ánh đúng giá trị thật của thửa đất. Đây là một trong những điểm mới nổi bật về giá đất so với Luật Đất đai năm 2013 khi xác định thời hạn áp dụng bảng giá đất là 5 năm. Điều này hoàn toàn phù hợp, tạo điều điều kiện để định giá đất sát với giá thị trường, làm cơ sở cho các mục đích khác nhau như xác định giá bất động sản, tính toán chi phí - hiệu quả đầu tư dự án... Tuy nhiên, việc xây dựng bảng giá đất hàng năm sẽ làm tăng áp lực về nguồn nhân lực, trách nhiệm... đối với địa phương. Do đó, trong thời gian tới cần tuyển chọn đội ngũ nhân sự được đào tạo bài bản về trình độ, nghiệp vụ; có kế hoặch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đã có và nguồn nhân lực mới ở địa phương về định giá đất (3). Có như vậy thì vấn đề triển khai việc bảng giá đất hàng năm đạt được mục tiêu đề ra.  

    Hai là, về quá trình xây dựng bảng giá đất: Để đảm bảo tính độc lập giữa “tổ chức tư vấn xác định giá đất, Hội đồng thẩm định bảng giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể và cơ quan hoặc người có thẩm quyền quyết định giá đất”, tại Điều 159 Luật Đất đai năm 2024 đã quy định cụ thể: Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định; cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh tổ chức việc xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung bảng giá đất. Trong quá trình thực hiện, cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức tư vấn xác định giá đất để xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung bảng giá đất. Lưu ý, với quy định “được thuê” thì việc có  thuê tổ chức tư vấn xác định giá đất của cơ quan có thẩm quyền có thể được thực hiện hoặc không thực hiện.

    Bên cạnh đó, tính độc lập còn được đảm bảo bởi quy định về trách nhiệm của Hội đồng thẩm định khi “làm việc độc lập, khách quan, theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số; Chủ tịch và các thành viên chịu trách nhiệm cá nhân về ý kiến của mình. Các cuộc họp Hội đồng phải có biên bản ghi chép đầy đủ các ý kiến thảo luận, kết quả biểu quyết, được lưu trữ cùng với các tài liệu phục vụ cuộc họp và ý kiến bằng văn bản của thành viên Hội đồng”. Hơn nữa, Hội đồng được mời đại diện Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức chính trị - xã hội khác tham gia cuộc họp thẩm định giá đất để thực hiện quyền giám sát, phản biện trong quá trình quyết định giá đất (khoản 6 Điều 161 Luật đất đai năm 2024.

    Ba là, về thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể: Nếu như tại Điều 114 Luật Đất đai năm 2013 chỉ phân quyền cho UBND cấp tỉnh trong việc quyết định giá đất cụ thể; thì tại khoản 2 Điều 160 Luật Đất đai năm 2024 đã có sự phân quyền và cá thể hóa trách nhiệm của cá nhân Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện trong việc quyết định giá đất. Điều này là sự cụ thể hóa nội dung của Nghị quyết số 73/NQ-CP ngày 6/5/2023 của Chính phủ về ủy quyền quyết định giá đất cụ thể và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy tiến độ định giá đất, tháo gỡ khó khăn cho hàng trăm dự án bất động sản trên cả nước hiện đang phải “chờ” thủ tục định giá. Đồng thời, quy định này còn giúp minh định rõ được trách nhiệm của cá nhân nếu có sai phạm xảy ra, khắc phục tình trạng núp bóng “trách nhiệm tập thể” để trốn tránh trách nhiệm trong công tác quản lý đất đai (4)

    Giá đất là nội dung quan trọng, mang tính quyết định đối với việc khai thác nguồn lực đất đai. Do đó, để đảm bảo việc áp dụng hiệu quả trên thực tế, tránh phát sinh những vướng mắc, giúp nguồn lực đất đai thực sự được khơi thông cho quá trình phát triển của đất nước trong giai đoạn mới Nghị định của Chính phủ được ban hành cần làm rõ các nội dung về giá đất chưa được quy định cụ thể trong Luật Đất đai năm 2024 trong thời gian tới.

Ths. NCS. Phùng Thị Phương Thảo

Khoa Luật, Học viện Ngân hàng

(Theo tapchimoitruong.vn)

Tài liệu tham khảo

1. Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.

2. Báo cáo số 85/BC-BTNMT ngày 3/8/2022 của Bộ TN&MT về đánh giá thi hành Luật Đất đai năm 2013.

3. Nguyễn Thị Nga (2024), Một số điểm mới về Luật Đất đai năm 2024 và những đề xuất nhằm tổ chức có hiệu quả trong thời gian tới, Hội nghị phổ biến, quán triệt Luật Đất đai năm 2024 của ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp, tr. 191.

4. Đinh Tấn Phong (2024), Luật Đất đai năm 2024: Vài suy nghĩ đối với quy định về giá đất, https://vietstock.vn/2024/02/luat-dat-dai-nam-2024-vai-suy-nghi-doi-voi-quy-dinh-ve-gia-dat-4220-1154277.htm, truy cập ngày 15/4/2024.

5. Luật Đất đai năm 2013.

6. Luật Đất đai năm 2024.

NỘI DUNG KHÁC

Cần tăng cường thực hiện các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí

11-6-2024

Trước thực trạng ô nhiễm không khí toàn cầu, WHO cho rằng, các quốc gia phải có cam kết mạnh mẽ hơn trong cải thiện chất lượng không khí. Theo đó, cần tăng cường năng lực hệ thống theo dõi, giám sát chất lượng không khí và chia sẻ thông tin, số liệu với công chúng, nhằm tăng cường các biện pháp khẩn cấp để giảm thiểu phát thải khí trong giai đoạn ô nhiễm không khí đã vượt quá ngưỡng khuyến cáo này. Đồng thời, nguồn gây ô nhiễm cần được xác định thấu đáo trong xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch dài hạn nhằm đảm bảo không khí sạch.

Bàn về hành vi vi phạm nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản do sự kiện bất khả kháng

12-6-2024

Các nguyên nhân thuộc sự kiện bất ngờ, trở ngại khách quan và sự kiện bất khả kháng đã gây ảnh hưởng và tác động đến hoạt động khai thác khoáng sản cho không ít doanh nghiệp trong khai thác khoáng sản.

Thiết lập tài khoản chất thải rắn theo Khung Hệ thống Hạch toán Kinh tế - Môi trường (SEEA-CF) của Liên hợp quốc - nghiên cứu thí điểm tại Quảng Ninh

12-6-2024

Khung Hệ thống Hạch toán Kinh tế - Môi trường là tiêu chuẩn thống kê quốc tế hướng dẫn đo lường môi trường và mối quan hệ của môi trường với nền kinh tế, xem xét sự thay đổi của các tài sản môi trường. Tài khoản chất thải rắn (CTR) rất hữu ích trong việc tổ chức thông tin về việc phát sinh chất thải rắn và quản lý dòng chất thải rắn đến các cơ sở tái chế, đến các bãi chôn lấp được kiểm soát hoặc thải trực tiếp ra môi trường. Các thước đo về lượng chất thải tổng hợp hoặc số lượng từng loại chất thải cụ thể có thể là những chỉ số quan trọng về áp lực môi trường. Nghiên cứu thiết lập tài khoản CTR theo hướng dẫn của SEEA-CF đã được thí điểm tại tỉnh Quảng Ninh. Nghiên cứu đã thu thập dữ liệu, đánh giá hiện trạng quản lý, xác định dòng chất thải từ nguồn phát sinh đến điểm xử lý cuối cùng, đồng thời, thiết lập tài khoản CTR trên cơ sở các dữ liệu thu thập và tính toán. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tài khoản CTR đã thể hiện khối lượng chất thải được phát sinh, thu gom, xử lý cũng như lượng tồn lưu trong môi trường cho các năm 2015 và 2022. Những thông tin này cung cấp một bức tranh tổng thể về hiện trạng quản lý CTR trên địa bàn tỉnh, làm cơ sở đề xuất giải pháp quản lý phù hợp, hiệu quả và bền vững trong thời gian tới.

Xu hướng áp dụng thuế carbon và bài học cho Việt Nam

13-6-2024

Thuế carbon là loại thuế được áp dụng trực tiếp cho việc sản xuất khí thải nhà kính hoặc nhiên liệu thải ra các loại khí thải này khi chúng bị đốt cháy, thường là các loại nhiên liệu hóa thạch. Cơ sở nền tảng của việc áp thuế carbon là đưa ra chi phí bổ sung cho mỗi tấn CO2 phát thải vào khí quyển. Vì thế, thuế carbon được xem là một chính sách kinh tế và là một công cụ hiệu quả về mặt chi phí để khuyến khích giảm phát thải khí nhà kính (KNK) tại nơi diễn ra phát thải theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả phí. Hiện nhiều quốc gia đã áp dụng thuế carbon nhằm thúc đẩy nền kinh tế giảm phát thải và điều này tác động rất lớn tới Việt Nam. Việc áp dụng thuế carbon như một công cụ chính thức tuy mang lại nhiều lợi ích trong việc giúp Việt Nam giảm phát thải và tăng thu ngân sách nhưng cũng đặt ra không ít thách thức, do đó cần nghiên cứu kỹ trước khi thực hiện thí điểm và áp dụng rộng rãi.

Cần bảo vệ những loài di cư trên thế giới

14-6-2024

Trên thế giới hiện có hàng tỷ động vật thường xuyên di chuyển mỗi năm. Các loài này di cư trên đất liền, dưới nước và trên bầu trời. Trong đó có một số loài mang tính biểu tượng nhất trên hành tinh như rùa biển, cá voi và cá mập trong đại dương; voi, mèo hoang và các loài có móng guốc băng qua đồng bằng và sa mạc; chim ăn thịt, chim nước và chim biết hót bay qua bầu trời và thậm chí cả các loài côn trùng như bướm vua. Chúng hường xuyên đi du lịch, đôi khi hàng ngàn dặm để đến được nơi chúng sinh sản hoặc kiếm ăn, tuy nhiên chúng cũng phải đối mặt với những thách thức và mối đe dọa to lớn trên đường đi. Khi các loài vượt qua biên giới quốc gia, sự sống còn của chúng phụ thuộc vào nỗ lực của tất cả các quốc gia nơi chúng sinh sống.

Thu phí chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng tại Mỹ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

14-6-2024

Với sự gia tăng không ngừng của dân số và sự phát triển kinh tế, lượng chất thải phát sinh từ các hoạt động của xã hội cũng đã tăng lên đáng kể. Đây không chỉ là một vấn đề về môi trường mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và cả cơ sở hạ tầng đô thị. Trong bối cảnh này, áp dụng mô hình thu phí theo khối lượng hoặc thể tích chất thải trở nên cần thiết nhằm giảm thiểu phát sinh chất thải, tạo động lực cho người dân tham gia vào các hoạt động tái chế và tái sử dụng. Các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Canađa, Tây Ban Nha, Phần Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… đã áp dụng hệ thống thu phí chất thải rắn (CTR) theo lượng chất thải phát sinh hay chính sách trả tiền cho những gì bạn bỏ/ném đi (PAYT). Bài viết sẽ phân tích việc áp dụng PAYT tại Mỹ, một trong những quốc gia tiên phong và thành công khi thực hiện chương trình này, từ đó, đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong thực hiện công tác này tại Việt Nam.

Ứng dụng khoa học công nghệ trong bảo tồn và phát triển loài voi

14-6-2024

Voi là động vật có vú thuộc họ Elephantidae và là động vật trên cạn lớn nhất hiện nay. Trên thế giới hiện có ba loài được công nhận: voi đồng cỏ châu Phi, voi rừng châu Phi và voi châu Á. Trong thế kỷ qua, quần thể voi đã trải qua sự suy giảm đáng kể, voi châu Phi ước tính còn khoảng 350.000 cá thể phân bố ở 18 quốc gia ở châu Phi cận Sahara[1]; voi châu Á chỉ còn khoảng 8.000 - 11.000 cá thể phân bố ở 8 quốc gia, bao gồm Campuchia, miền Nam Trung Quốc, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam [3]. Mối đe dọa lớn nhất đối với voi châu Phi là tội phạm động vật hoang dã, chủ yếu là săn trộm để buôn bán ngà voi bất hợp pháp, trong khi mối đe dọa lớn nhất đối với voi châu Á voi là mất môi trường sống, dẫn đến xung đột giữa người và voi. Trước thực trạng đó, các tổ chức bảo tồn trên thế giới đã ứng dụng khoa học công nghệ để theo dõi, quản lý loài voi nói riêng và động vật hoang dã nói chung.

Một số trường hợp điển hình trên thế giới về sử dụng công nghệ kỹ thuật số thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững

14-6-2024

Công nghệ kỹ thuật số đã trở thành động lực cơ bản cho sự thay đổi của nhân loại trong thế kỷ XXI. Từ năm 2015, các quốc gia trên thế giới đã khai thác công nghệ kỹ thuật số để đẩy nhanh tiến độ đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) vào năm 2030. Theo đó, 17 SDG - trải rộng từ xóa đói giảm nghèo đến làm sạch đại dương cho đến thúc đẩy bình đẳng giới - đều đang nhận được sự thúc đẩy từ các chiến lược kỹ thuật số mới nhất.

Đánh thuế đất đô thị bỏ trống: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách đối với Việt Nam

14-6-2024

Hiện nay, Bộ Tài chính đang nghiên cứu xây dựng Dự thảo Luật Thuế Bất động sản (BĐS), trong đó có nội dung đánh thuế đối với nhà ở thứ hai, thuế đối với nhà, đất bỏ trống phù hợp với thông lệ quốc tế. Bài viết cung cấp một góc nhìn từ kinh nghiệm quốc tế đối với đất đô thị bỏ trống, hay còn gọi là thuế đất trống (TĐT). Đây là loại thuế chủ yếu do chính quyền địa phương ban hành với mục đích tạo thêm nguồn thu cho chính quyền thành phố và chống đầu cơ, nhất là đối với các nước đang phát triển.

Định giá carbon và giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường carbon tại Việt Nam

17-6-2024

Để giảm phát thải khí nhà kính với chi phí hiệu quả nhất, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã và đang lựa chọn công cụ định giá carbon. Bắt nhịp với xu hướng này, Việt Nam cũng đang trong quá trình tăng cường năng lực xây dựng các công cụ thị trường, tạo điều kiện cho việc hình thành thị trường carbon.

Hoàn thiện pháp luật về kinh tế tuần hoàn khi thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường trong EVFTA 

18-6-2024

Định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn sẽ góp phần trợ giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiết kiệm nguồn nguyên liệu đầu vào, giảm thiểu phát thải ra ngoài môi trường...

Khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường để phát triển bền vững

19-6-2024

Trong dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản, có nhiều quy định về hoạt động khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường.

Theo đó, hoạt động khoáng sản phải bảo đảm nhiều nguyên tắc, trong đó có 2 nguyên tắc liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường.