ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Chương trình Danh lục xanh: Bộ tiêu chuẩn cho các khu bảo vệ và bảo tồn

Ngày đăng: 21 | 10 | 2024

  Chương trình Danh lục Xanh IUCN là một bộ tiêu chuẩn toàn cầu cho các khu bảo vệ và bảo tồn, cung cấp thước đo thành công trong bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững, đồng thời đóng góp vào các mục tiêu toàn cầu và các mục tiêu Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh-Montreal.

  Tính đến năm 2022, sáng kiến này đã thu hút được sự quan tâm và tham gia của hơn 60 quốc gia trên khắp thế giới. Quyết định XIII/2 của Công ước Đa dạng sinh học (CBD) đã ghi rõ “Chương trình Danh lục xanh IUCN cho các khu bảo vệ và bảo tồn là một tiêu chuẩn tự nguyện nhằm thúc đẩy và khuyến khích quản lý hiệu quả các khu bảo tồn”. Nhận thức được tầm quan trọng của bảo tồn đa dạng sinh học, Việt Nam đã tham gia tích cực vào tiến trình Danh lục Xanh IUCN.

Các loài hươu, nai hoang dã tại các đồng cỏ xanh mướt ven bìa rừng của VQG Cát Tiên

Chương trình Danh lục xanh IUCN

    Chương trình Danh lục Xanh của IUCN là một chương trình toàn cầu nhằm thúc đẩy bảo tồn thiên nhiên thành công kèm theo các tiêu chuẩn bền vững. Mục đích của Chương trình là công nhận và tăng số lượng các khu bảo vệ và bảo tồn được quản lý công bằng và hiệu quả trên toàn cầu, góp phần đem lại kết quả bảo tồn bền vững cho con người và thiên nhiên. Chương trình này do Ủy ban Thế giới về Khu Bảo tồn của IUCN (WCPA) và Ban Thư kí IUCN đồng quản lý.

    Chương trình  Danh lục Xanh IUCN có một Lý thuyết Thay đổi (ToC) cơ bản là đảm bảo Chương trình đạt được các kết quả từ ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn. Theo đó, kết quả ngắn hạn của Chương trình nhằm nâng cao năng lực và trao đổi kinh nghiệm giữa mạng lưới của các chuyên gia và các nhà bảo tồn. Qua quá trình triển khai và đánh giá Danh lục Xanh IUCN, xác định lộ trình và mục tiêu hành động để đạt được thành công trong bảo tồn. Chương trình Danh lục Xanh IUCN chứng nhận, tôn vinh và quảng bá các khu bảo vệ và bảo tồn đang đạt được mục tiêu bảo tồn hiệu quả và công bằng. Kết quả trung hạn nhằm tăng cường ghi nhận và hỗ trợ cho các khu bảo vệ và bảo tồn thông qua một bộ tiêu chuẩn hiệu quả tại từng khu bảo tồn; tập trung sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn để nâng cao tác động của bảo tồn; mang lại giá trị đối với các nhà quản lý, cộng đồng, đối tác và các bên liên quan; giá trị đối với các cơ quan quản lý, nhà tài trợ, nhà đầu tư và những nhà bảo trợ. Cuối cùng, kết quả dài hạn với mục tiêu là mở rộng diện tích các khu bảo vệ và bảo tồn được thiết kế tốt, được quản lý công bằng và hiệu quả trên toàn cầu; đạt được các mục tiêu dự kiến và góp phần vào mục tiêu bền vững toàn cầu.

    Trọng tâm của Chương trình Danh lục Xanh của IUCN là một bộ Tiêu chuẩn Bền vững toàn cầu tự nguyện nhằm ghi nhận các KBT đã đạt được các kết quả bảo tồn thiên nhiên thành công. Bộ tiêu chuẩn này cung cấp quy trình xác minh đảm bảo, trao chứng nhận cho những khu vực đáp ứng và duy trì được 17 tiêu chí và 50 chỉ số, được chia thành 4 lĩnh vực: Quản trị tốt; thiết kế và lập kế hoạch tốt; quản lý hiệu quả và kết quả bảo tồn thành công. Quá trình đánh giá Danh lục Xanh được thực hiện bởi một ban chuyên gia đánh giá độc lập, với sự giám sát chặt chẽ của IUCN. Tiêu chuẩn Danh lục Xanh vẫn duy trì tính nhất quán trên toàn cầu nhưng được điều chỉnh và áp dụng theo bối cảnh địa phương. Tiêu chuẩn Danh lục Xanh được sử dụng để phân tích khoảng trống trong công tác quản trị để các nhà quản lý có thể đưa ra những giải pháp cải thiện công tác quản lý qua các kết quả hoạt động. Bằng việc cam kết đáp ứng tất cả các tiêu chí của Tiêu chuẩn, các nhà quản lý khu bảo vệ và bảo tồn có thể hướng đến việc duy trì và đạt được tiêu chuẩn cao về bảo tồn tự nhiên và xã hội một cách hiệu quả.

4 Hợp phần và 17 Tiêu chí Chương trình Danh lục Xanh của IUCN

 Tại Hội nghị Bảo tồn Thế giới IUCN 2016, Tiêu chuẩn Danh lục Xanh IUCN được khởi động và đến nay đã đạt được những kết quả toàn cầu. Tính đến cuối năm 2023 có 77 khu khu bảo vệ và bảo tồn ở 18 quốc gia trên thế giới đã được chứng nhận Danh lục Xanh; hơn 300 khu bảo vệ và bảo tồn tham gia vào Chương trình Danh lục Xanh của IUCN, trong đó 108 khu chính thức tham gia; hơn 60 quốc gia tham gia vào cộng đồng Danh lục Xanh IUCN; 31 khu bảo tồn đã được chứng nhận Danh lục Xanh tại 10 quốc gia ở châu Á: Bhutan, Cam-pu-chia, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Pakistan, Hàn Quốc và Việt Nam.

    Không giống như các danh hiệu khác như Di sản Thế giới và Khu dự trữ sinh quyển, Danh lục Xanh IUCN hỗ trợ bảo tồn thành công các khu bảo vệ và bảo tồn bằng cách chứng nhận, khuyến khích và nâng cao năng lực để đạt được tác động cụ thể cho cả khía cạnh pháp lý, văn hóa, xã hội, địa lý và sinh thái. Điều này giúp đưa ra tiêu chuẩn quốc tế về hiệu quả quản lý mang tính định lượng, đồng bộ và bao trùm các khía cạnh của bảo tồn theo khu vực. Một khu bảo vệ và bảo tồn sẽ đạt được chứng nhận Danh lục Xanh của IUCN sau khi đạt được những kết quả bảo tồn liên tục cho con người và thiên nhiên một cách công bằng và hiệu quả. Bất kỳ khu bảo tồn nào cũng có thể tham gia Danh lục Xanh, nỗ lực để đạt được thành công, sau đó duy trì tiêu chuẩn hoặc cải thiện hơn nữa.

    Quá trình đánh giá của Ủy ban Danh lục Xanh IUCN bao gồm ba giai đoạn: Giai đoạn Đăng ký, Giai đoạn Ứng viên và Giai đoạn Danh lục xanh. Một Khu bảo tồn sẽ trở thành một phần của Chương trình Danh lục Xanh của IUCN khi bước vào Giai đoạn Đăng kí. Từng giai đoạn được đánh giá độc lập bởi Nhóm Chuyên gia Đánh giá về Danh lục xanh (EAGL) và người thẩm định độc lập. EAGL là các chuyên gia do Ủy ban Thế giới về các Khu bảo tồn của IUCN thành lập và được chỉ định phê duyệt bởi một người thẩm định. Nhiệm vụ chính của nhóm chuyên gia EAGL là đảm bảo Tiêu chuẩn Danh lục Xanh IUCN có thể áp dụng trong phạm vi quyền hạn của nhóm và đánh giá các Khu bảo tồn theo các chỉ số của bộ Tiêu chuẩn.

Sự tham gia của Việt Nam vào Chương trình Danh lục Xanh

    Châu Á chiếm 50% số lượng các VQG và Khu Bảo tồn (KBT) được công nhận danh hiệu Danh lục Xanh trên toàn cầu. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tại châu Á tham gia Danh lục Xanh (từ năm 2015), cùng với Trung Quốc và Hàn Quốc. Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng khích lệ trong bảo tồn đa dạng sinh học và việc tham gia Danh lục Xanh IUCN thể hiện cam kết đối với sự bền vững môi trường toàn cầu.

  Giám đốc VQG Cát Tiên, ông Phạm Xuân Thịnh (bên phải) nhận chứng nhận danh hiệu Danh lục xanh từ ông Jake Brunner, Giám đốc IUCN khu vực Hạ lưu Mê-Kông, trưởng đại diện IUCN tại Việt Nam

  Hiện tại, Việt Nam có 11 Khu bảo vệ và bảo tồn tham gia Chương trình Danh lục Xanh gồm: Vườn quốc gia (VQG) Cúc Phương, KBT đất ngập nước (ĐNN) Vân Long; VQG Pù Mát; VQG Vũ Quang; VQG Phong Nha - Kẻ Bàng, VQG Bạch Mã, Khu Dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong, VQG Sông Thanh, VQG Bidoup - Núi Bà, VQG Cát Tiên; VQG Côn Đảo. Trong đó có KBT ĐNN Vân Long đạt được chứng nhận Danh hiệu Danh lục Xanh vào năm 2011; VQG Cát Tiên đã đạt được chứng nhận Danh hiệu Danh lục Xanh vào năm 2024; VQG Côn Đảo và VQG Pù Mát đang trong Giai đoạn Đăng ký và các khu còn lại đang trong Giai đoạn Ứng viên. Sự tham gia tích cực của các khu bảo vệ và bảo tồn của Việt Nam vào Chương trình Danh lục Xanh thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc nâng cao tiêu chuẩn quản lý các khu bảo tồn.

    Khi tham gia vào Chương trình Danh lục Xanh, Việt Nam sẽ được quốc tế công nhận và thể hiện cam kết của Việt Nam đối với bảo tồn đa dạng sinh học. Chương trình cũng đem lại cho các khu bảo vệ và bảo tồn cách thức quản trị tốt, đồng thời làm tăng lượng khách du lịch, đóng góp cho nền kinh tế địa phương, đảm bảo hài hòa các hoạt động phát triển bền vững. Bên cạnh đó, công cụ kiểm soát tính hiệu quả (METT) của Chương trình sẽ mang tính chủ quan thấp hơn, nhờ đó sẽ cung cấp một biện pháp quản lý hiệu quả, đồng bộ hơn, có thể so sánh ở quy mô toàn cầu. Việc tham gia Chương trình Danh lục Xanh IUCN mở ra cánh cửa hợp tác quốc tế, trao đổi kiến thức và tiếp cận nguồn tài trợ cho các dự án bảo tồn. Sự tham gia của Việt Nam vào chương trình mang tầm cỡ quốc tế như Chương trình Danh lục Xanh là minh chứng cho sự đóng góp của Việt Nam trong việc bảo tồn đa dạng sinh học phong phú và thúc đẩy phát triển bền vững.

    Tuy nhiên để đạt được chứng nhận Danh lục Xanh, các khu bảo vệ và bảo tồn cần thể hiện sự cam kết lâu dài và kiên trì. Trên thực tế, trong quá trình triển khai thực hiện, các khu bảo tồn và bảo vệ đang gặp phải một số khó khăn, thách thức trong việc thu thập bằng chứng chứng minh sự tuân thủ 17 tiêu chí của bộ Tiêu chuẩn; nguồn tài chính cho giám sát, đánh giá đa dạng sinh học còn hạn chế; động vật hoang dã vẫn tiếp tục biến mất thông qua kết quả của điều tra đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh; công tác quản lý các khu bảo tồn chưa hiệu quả.

    Sự tham gia của Việt Nam vào chương trình mang tầm cỡ quốc tế như Danh lục Xanh là minh chứng những nỗ lực của Việt Nam trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học và thúc đẩy phát triển bền vững. Điều này được thể hiện thông qua việc đo lường tiến độ và tác động bảo tồn để cải thiện hiệu quả công tác bảo tồn tổng thể của các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam nhằm hướng tới đạt được các mục tiêu về đa dạng sinh học quốc gia và toàn cầu.

Phú Hà

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 8/2024)

NỘI DUNG KHÁC

Kinh nghiệm bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên tại rạn san hô Great barrier của Ôxtrâylia và bài học cho Việt Nam

22-10-2024

 Theo Công ước Di sản Thế giới, di sản thiên nhiên (DSTN) là các đặc điểm tự nhiên bao gồm sự hình thành vật lý, sinh học hoặc các sự cấu thành tương tự có giá trị nổi bật toàn cầu theo quan điểm thẩm mỹ hoặc khoa học; sự hình thành địa chất, địa văn và các khu vực được phân định chính xác tạo thành môi trường sống của các loài sinh vật bị đe dọa có giá trị nổi bật toàn cầu theo quan điểm của khoa học hoặc bảo tồn; các địa điểm tự nhiên hoặc các khu vực tự nhiên được phân định chính xác có giá trị phổ quát nổi bật theo quan điểm khoa học, bảo tồn hoặc có vẻ đẹp tự nhiên (UNESCO, 1972).

Giải pháp thành lập hệ thống giao dịch phát thải tại Việt Nam

22-10-2024

 Việc thành lập hệ thống giao dịch phát thải (ETS) được xem là giải pháp hữu hiệu thúc đẩy hoạt động giảm phát thải khí nhà kính (KNK), đồng thời giúp Việt Nam chủ động hơn trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) nhằm đạt được cam kết mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trên cơ sở giới thiệu thực tiễn, lộ trình cụ thể giảm nhẹ phát thải KNK tại Việt Nam, bài viết đề xuất phương án, điều kiện, lộ trình và giải pháp thành lập ETS tại Việt Nam như: Xây dựng khung pháp lý; Hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ cho ETS; Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại đáp ứng hoạt động của ETS; Phát triển nguồn nhân lực phục vụ hệ thống giao dịch phát thải…

Một số rào cản trong tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp thông thường tại các khu công nghiệp ở Việt Nam

23-10-2024

Tại Việt Nam, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, tái sử dụng chất thải trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã được quy định tại Luật BVMT 2020 và các văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, “cộng sinh công nghiệp” được Chính phủ quy định tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế cũng đề cập đến hoạt động tái sử dụng chất thải. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã tiến hành đánh giá việc thực hiện tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp trong khu công nghiệp, xác định những rào cản, vướng mắc, từ đó đề xuất giải pháp về quản lý/tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp thông thường trong khu công nghiệp, hướng tới chuyển đổi sang mô hình khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam.

Thực trạng và đề xuất giải pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố chất thải tại một số cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam

23-10-2024

 Trong thời gian gần đây, nhiều sự cố chất thải (nước thải, khí thải) do hoạt động sản xuất đã xảy ra ở nhiều tỉnh/thành phố, tuy nhiên, việc phòng ngừa, ứng phó các sự cố chất thải từ hoạt động sản xuất chưa được quan tâm đúng mức, gây ảnh hưởng đến môi trường. Do đó, công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố (UPSC) chất thải (nước thải, khí thải) tại các cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở xử lý chất thải cần được thực hiện theo đúng quy định của Luật BVMT năm 2020.

Đánh giá các cơ hội và thách thức trong việc giảm phát thải khí nhà kính tại một số cụm công trình khai thác dầu khí, ngoài khơi Việt Nam

23-10-2024

  Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang là một trong những thách thức toàn cầu mang tính cấp bách nhất hiện nay, tác động sâu sắc đến môi trường, kinh tế - xã hội. Xuất phát từ chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), từ năm 2014 - 2022, Tổng Công ty thăm dò khai thác dầu khí (PVEP) đã chủ động thực hiện kiểm kê khí nhà kính (KNK) tại 4 tổ hợp công trình khai thác dầu khí (CTKTDK).

Đánh giá kết quả chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội giai đoạn 2019 - 2023

24-10-2024

Hiện nay, tình trạng kê khai giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) trên hợp đồng thường thấp hơn thực tế. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tình hình chuyển nhượng QSDĐ và biến động giá đất giai đoạn từ năm 2019 - 2023 trên địa bàn huyện Chương Mỹ, TP. Hà Nội. Số liệu chuyển nhượng và thông tin hợp đồng chuyển nhượng của một số tuyến đường của một số xã, thị trấn trong giai đoạn 2019-2023 được thu thập từ cơ quan đăng ký đất đai, giá chuyển nhượng thu thập thông qua phỏng vấn cán bộ địa chính cấp xã, nhân viên môi giới hoặc người sử dụng đất.

Kinh nghiệm đốt rác phát điện trên thế giới và đề xuất giải pháp cho Việt Nam

25-10-2024

 Hiện nay, dân số đô thị ở nước ta đang ngày càng tăng do tình trạng đô thị hóa, cụ thể: Năm 2015, dân số đô thị là 35 triệu người, chiếm 38% dân số cả nước, năm 2020 là 44 triệu người, chiếm 45% dân số và ước tính năm 2025 sẽ là 52 triệu người, chiếm 50% dân số cả nước. Tình trạng này kéo theo sự gia tăng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) hàng năm, với mức tăng trung bình khoảng 10%/năm.

Giải pháp xây dựng Hệ thống giao dịch phát thải Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của châu Âu

28-10-2024

 Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nhanh chóng với nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, tuy nhiên, sự phát triển này cũng kéo theo mức phát thải khí nhà kính (KNK) ngày càng tăng. Vì vậy, việc xây dựng Hệ thống giao dịch phát thải (ETS) là một trong những giải pháp hiệu quả để kiểm soát và giảm thiểu phát thải KNK, đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững (PTBV).

Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam

29-10-2024

​​​​​​​Kinh tế xanh là sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Cho nên, phát triển kinh tế xanh góp phần hiện thực hóa sự kết hợp giữa các yếu tố trên, đồng thời góp phần nâng cao đời sống của con người, cải thiện môi trường xã hội và giảm thiểu những rủi ro về môi trường. Bài viết làm rõ về quá trình nhận thức và thực tiễn phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam; từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam theo hướng bền vững thời gian tới. 

Áp dụng cơ chế “Đặt cọc - Hoàn trả” để thu gom chai nhựa - Tình huống nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh

30-10-2024

 Thực trạng thải bỏ chai nhựa không đúng cách trong cộng đồng dân cư gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là tại TP. Hồ Chí Minh, đang là một vấn đề đáng lo ngại. Nhằm góp phần vào hoạt động quản lý rác thải và giảm rác thải nhựa (RTN) ra môi trường, nhóm nghiên cứu áp dụng công cụ “Đặt cọc - Hoàn trả” trong họat động thu gom chai nhựa PET để xây dựng mô hình "mượn chai nước” tại địa phương. Thông qua phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM), phỏng vấn trực tiếp 202 người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh bằng bảng hỏi khảo sát mức sẵn lòng chi trả dựa trên giả định người tiêu dùng sẵn lòng trả thêm bao nhiêu tiền khi mua một chai nước làm bằng nhựa PET, nhóm tác giả xác định mức phí “Đặt cọc” cho hoạt động thu gom chai PET sau sử dụng. Kết quả cho thấy, mức sẵn lòng chi trả cho chi phí “Đặt cọc” là từ 1.200 - 2.000 đồng/chai tùy dung tích; sự sẵn lòng tham gia vào chương trình “mượn chai nước” của người tiêu dùng là trên 88%. Từ kết quả này, nghiên cứu đề xuất thực hiện mô hình “mượn chai nước” tại TP. Hồ Chí Minh để thu gom chai PET sau sử dụng cho hoạt động tái chế, tái sử dụng, BVMT.

Bộ tiêu chí chấm điểm về quyền tiếp cận và đăng ký đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

31-10-2024

 Để giúp các cơ quan quản lý, cơ quan chuyên môn xây dựng các chiến lược, chính sách đất đai cho đối tượng là doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng, thì rất cần có một công cụ quản lý mới, hằng năm có thể căn cứ vào kết quả đó để đánh giá hiệu quả quản lý đất đai ở địa phương trong việc tạo môi trường đầu tư, kinh doanh ở địa phương. Nghiên cứu đề xuất Bộ tiêu chí chấm điểm cho các địa phương về quyền tiếp cận đất đai và đăng ký đất đai đối với DNNVV. Đây là bộ chỉ số đo lường và đánh giá thực tiễn chất lượng, hiệu quả quản lý đất đai của các tỉnh/thành phố, được coi là tấm gương phản chiếu, thể hiện hiệu quả quản lý đất đai thông qua đánh giá của các DNNVV đối với hệ thống quản lý đất đai.

Thực trạng về chất thải rắn sinh hoạt và tiềm năng phát triển kinh tế tuần hoàn từ rác thải nhựa cho Thành phố Hồ Chí Minh

4-11-2024

    Chất thải rắn (CTR) phát sinh cùng với sự phát triển của con người gần như là quy luật không thể tránh khỏi, đáng chú ý là rác thải nhựa (RTN). Bằng phương pháp lý thuyết và thực tiễn, nghiên cứu đề xuất mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) cho ngành nhựa, giảm thiểu RTN cho TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam. Kết quả cho thấy chưa đến 44% rác nhựa được thu hồi, còn lại hơn 56% người dân thải bỏ. Thành phần RTN phần lớn là nhựa polypropylen (27,1%), polyetylen (51,2%) và polyvinyl clorua (13,4%). Đặc biệt, thông qua phương pháp phân tích SWOT và thang đo Likert, nghiên cứu đã chỉ ra cơ hội trong việc tái thu nhập tài chính và những thách thức cần giải quyết khi áp dụng giải pháp đề xuất cho khu vực nghiên cứu.