THỊ TRƯỜNG

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Dư địa lớn cho doanh nghiệp

Ngày đăng: 16 | 04 | 2024

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, đưa công nghệ tiến gần với nông dân.

Khuyến khích đối tác tư nhân tham gia

Ngày 3/4, tại TP Cần Thơ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Đối tác phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam (PSAV) tổ chức hội thảo hợp tác công tư phục vụ Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030 (gọi tắt là Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao).

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đưa ra những định hướng lớn để các doanh nghiệp, đối tác xem xét, xác định khả năng tham gia vào Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đưa ra những định hướng lớn để các doanh nghiệp, đối tác xem xét, xác định khả năng tham gia vào Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đã đưa ra những định hướng lớn để các doanh nghiệp, đối tác xem xét, xác định khả năng tham gia vào một số khâu trong Đề án. Trong đó, Thứ trưởng Nam xác định, trọng tâm của Đề án là giúp bà con nông dân thực hiện đạt quy trình canh tác bền vững.

Thứ trưởng Nam ủng hộ, khuyến khích và kêu gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng tham gia, đầu tư vào các HTX và lực lượng khuyến nông để đưa công nghệ tiến gần hơn với nông dân, từ đó thay đổi nhận thức và hành động của bà con.

Thứ trưởng Nam xác định, đầu tư cho HTX là đầu tư về con người, giúp HTX nâng cao năng lực quản lý và khả năng ứng dụng công nghệ.

Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát triển đội ngũ khuyến nông là cần thiết, bởi đây là lực lượng sẽ đồng hành với bà con nông dân, HTX trong quá trình đo đếm khí phát thải ở cơ sở và xây dựng các báo cáo MRV.

“Lực lượng này rất cần nâng cao trình độ, họ sẽ là người hướng dẫn quy trình canh tác, chuyển giao những công nghệ mới. Chúng tôi rất cần sự hợp tác của các doanh nghiệp, lực lượng khuyến nông là dư địa rất lớn để các doanh nghiệp hợp tác”, Thứ trưởng Nam khẳng định.

Nhóm PPP về lúa gạo sẽ hỗ trợ tăng thu hút đầu tư và hiện đại hóa hệ thống nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Kim Anh.

Nhóm PPP về lúa gạo sẽ hỗ trợ tăng thu hút đầu tư và hiện đại hóa hệ thống nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Kim Anh.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng đây là vấn đề khó, nhưng Bộ NN-PTNT quyết tâm thực hiện và mong muốn doanh nghiệp cùng tham gia, theo cơ chế vận hành của Bộ, đảm bảo các bên đều được hưởng lợi. Tuy ban đầu có thể vướng phải một số khó khăn, nhưng Bộ NN-PTNT sẽ đồng hành tháo gỡ để hình thành một cơ chế chung.

Hiện nay, các cơ quan chuyên môn của Bộ NN-PTNT đã lấy ý kiến Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và các tổ chức quốc tế về kế hoạch đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (MRV). Sắp tới, Bộ NN-PTNT sẽ làm việc với Ngân hàng Thế giới (WB) để góp ý và thông qua kế hoạch này nhằm tiến tới công bố, hợp thức hóa về mặt pháp lý để triển khai.

Việc thành lập nhóm công tác Đối tác công tư ngành hàng lúa gạo (Nhóm PPP về lúa gạo) là rất cần thiết và đúng lúc. Góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam với quốc tế và hướng tới nâng cao giá trị gia tăng của lúa gạo thông qua chuỗi giá trị.

Ngoài ra, Nhóm PPP về lúa gạo cũng hỗ trợ, tăng thu hút đầu tư và hiện đại hóa hệ thống nông nghiệp, lương thực thông qua áp dụng công nghệ, kết nối đổi mới sáng tạo, mang lại lợi ích cho nông dân và nông nghiệp Việt Nam.

Việc phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao vùng ĐBSCL có ý nghĩa quan trọng để hình thành vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn, ổn định, lâu dài. Để đạt mục tiêu này, Việt Nam cần phải nỗ lực rất lớn, không chỉ từ phía Chính phủ mà cả khối tư nhân, doanh nghiệp, người sản xuất trực tiếp cùng tham gia. Trong đó, một trong những giải pháp then chốt được ưu tiên thực hiện là đẩy mạnh thu hút đầu tư theo hình thức đối tác công - tư.

Tạo chính sách tín dụng cho 1 triệu khách hàng

Ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An bày tỏ, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao nằm trong chiến lược mà doanh nghiệp này đeo đuổi hơn 10 năm qua.

Ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An mong muốn được hỗ trợ về chính sách tín dụng để tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An mong muốn được hỗ trợ về chính sách tín dụng để tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Theo ông Bình, Việt Nam dù là quốc gia có thế mạnh về lúa gạo, nhưng với xu thế biến đổi khí hậu, diện tích trồng cây lương thực ngày càng giảm và gạo trở thành một trong những mặt hàng khan hiếm, giá cả tăng cao. Trong khi đó, giá lúa gạo Việt Nam hiện rất bấp bênh.

Do đó, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ngoài vấn đề trồng lúa thân thiện với môi trường, còn đảm bảo ổn định sản xuất, tiêu thụ lúa gạo Việt Nam. Chủ thể chính của Đề án được ông Bình xác định là HTX và doanh nghiệp

“Muốn dán nhãn carbon thấp lên bao gạo, ít nhất trên cánh đồng đó phải giảm khí phát thải, đo đếm được tín chỉ carbon. Doanh nghiệp và HTX phải cùng nhau tham gia, nếu không sẽ không ai có thể làm được”, ông Bình khẳng định.

Ngoài ra, ông Bình mong muốn được tiếp cận với nguồn lực về chính sách tín dụng để hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp khi tham gia Đề án.

Ông Nguyễn Quang Ngọc, Phó Trưởng ban Chính sách Tín dụng của Agribank cho biết, đơn vị sẽ có điều kiện tiếp cận, cung cấp các sản phẩm tín dụng cho trên 1 triệu khách hàng là cá nhân, HTX, doanh nghiệp trong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.

Đại diện Agribank cho biết, đơn vị có điều kiện tiếp cận trên 1 triệu khách hàng là các cá nhân, HTX, doanh nghiệp tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Đại diện Agribank cho biết, đơn vị có điều kiện tiếp cận trên 1 triệu khách hàng là các cá nhân, HTX, doanh nghiệp tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.

Để tạo cơ chế, chính sách tín dụng cho các doanh nghiệp khi tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, thúc đẩy Đề án nhanh chóng đi vào thực tế, Agribank kiến nghị Bộ NN-PTNT sớm công bố danh mục vùng chuyên canh, các liên kết, doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác và hộ trồng lúa đủ điều kiện tham gia Đề án để Agribank sớm tiếp cận và hướng dẫn khách hàng về hồ sơ, thủ tục vay vốn.

Đồng thời, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL công bố định mức chi phí thực tế trên mỗi ha thực hiện các khâu trong liên kết lúa gạo để xác định mức cho vay.

Từ đầu năm đến nay, Agribank đã triển khai 5 chương trình ưu đãi lãi suất cho khách hàng. Trong đó, giảm tối đa 2%/năm so với sàn lãi suất vay đối với khách hàng đầu tư, sản xuất kinh doanh gắn với Chương trình OCOP, quy mô 2.000 tỷ đồng.

Kim Anh

https://nongnghiep.vn/de-an-1-trieu-ha-lua-chat-luong-cao-du-dia-lon-cho-doanh-nghiep-d381173.html

NỘI DUNG KHÁC

Tham vấn kỹ thuật về nghiên cứu chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam từ khi Đổi mới

16-4-2024

Trong khuôn khổ thực hiện nhiệm vụ: “Tổng kết Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam từ khi đổi mới” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn phối hợp với các chuyên gia của đại học Sydney (Úc) tổ chức tham vấn về “Tổng kết chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam từ khi Đổi mới”.

Vận dụng kinh nghiệm Saemaul Undong trong xây dựng nông thôn mới: Bài học từ Chương trình Hạnh phúc Lào Cai

17-4-2024

Từ năm 2015, Chương trình Hạnh phúc Lào Cai bắt đầu được triển khai trên cơ sở Biên bản thỏa thuận giữa Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA). Mục tiêu của chương trình nhằm hỗ trợ xóa đói giảm nghèo và cải thiện sinh kế với sự tự lực và tham gia của người dân gắn liền với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới dựa trên kinh nghiệm phong trào Saemaul Undong những năm 1970 của Hàn Quốc. Với những tác động từ cộng đồng cấp thôn, bản, sau gần hai năm triển khai, kết quả đạt được của Chương trình Hạnh phúc Lào Cai đã cho phép rút ra nhiều bài học kinh nghiệm thực tiễn có thể nhân rộng áp dụng cho xây dựng nông thôn mới ở các địa bàn khó khăn thuộc khu vực miền núi phía Bắc.

Thực trạng phát triển bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam: Bối cảnh và vai trò của Bảo hiểm nông nghiệp (Kỳ 1)

16-4-2024

Bối cảnh   Nông nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là trụ đỡ cho sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam. Điều này được thể hiện qua những đóng góp to lớn trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người dân, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, chính trị và xã hội. Tính đến năm 2020, Việt Nam có khoảng 18 triệu lao động tham gia sản xuất nông nghiệp, chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả các ngành nghề hiện có (Tổng cục Thống kê, 2021). Nông nghiệp đóng góp khoảng 14,85% GDP của cả nước, 33,06% tổng số việc làm (Tổng cục Thống kê, 2020), đóng góp 18,5% tổng thu nhập của các hộ nông thôn (Khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê, 2020). Không những vậy, kim ngạch xuất nhập khẩu nông sản liên tục tăng, từ 20 tỷ đô la Mỹ năm 2010 tăng lên mức 48,6 tỷ đô la Mỹ năm 2021, với 10 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ đô la Mỹ, trong đó 6 nhóm hàng xuất khẩu trên 3 tỷ đô la Mỹ. Trong 10 năm qua, nông nghiệp Việt Nam xuất siêu trung bình 7-8 tỷ đô la Mỹ/năm, là ngành duy nhất xuất siêu ra thị trường thế giới, mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.

BẢN TIN THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM - TUẦN 15/2024 (1/4-12/4)

15-4-2024

Trong tuần 14, giá trung bình thịt bò thăn và thịt bò đùi đều tăng so với tuần trước. Trong đó, thịt bò thăn có giá 225,2 nghìn VNĐ/kg, tăng 0,7% so với tuần 13; thịt bò đùi là 202,6 nghìn VNĐ/kg tăng 1,1% so với tuần trước. Giá trung bình thịt bò hơi cả nước là 83 nghìn VNĐ/kg, tăng 0,6% so với tuần trước đó. Đối với bò địa phương/bò lai Brahman trong tuần 14, giá thấp nhất miền Trung – Tây Nguyên là 64.000 VNĐ/kg, trong khi giá cao nhất được ghi nhận ở Miền Bắc là 73 nghìn VNĐ/kg. Đối với bò BBB, trong tuần này, giá thấp nhất được ghi nhận ở miền Nam là 74 nghìn VNĐ/kg và cao nhất ở Miền Bắc là 84 nghìn VNĐ/kg.

BẢN TIN THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM - TUẦN 14/2024 (1/4 - 5/4)

9-4-2024

Trong tuần 13, giá trung bình thịt bò đùi và thịt bò thăn đều giảm so với tuần 12. Trong đó, giá trung bình thịt bò đùi là 200,3 nghìn VNĐ/kg – mức giá thấp nhất kể từ đầu năm 2024 đến nay, giảm 0,6% so với tuần trước. Giá trung bình thịt bò đùi là 223,6 nghìn VNĐ/kg, giảm 3,2% so với tuần trước. Giá trung bình thịt bò hơi là 82,5 nghìn VNĐ/kg, tăng nhẹ 0,6% so với tuần trước đó. Trong tuần 14, giá thịt bò Việt Nam tại hầu hết các siêu thị đều ổn định so với tuần trước ngoại trừ siêu thị Go báo tăng giá thịt bò thăn, thịt bò đùi và giảm giá thịt nạm bò. Co.op mart và Winmart là 2 siêu thị ít biến động giá nhất suốt từ đầu năm 2024 đến nay.

BẢN TIN THÁNG 3/2024 THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM

4-4-2024

Tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam trong tháng 2/2024 đạt 9,8 triệu USD, giảm 36% so với tháng trước và giảm 18% so với cùng kỳ năm 2023. Tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam trong tháng 2/2024 đạt 108 triệu USD, giảm 32% so với tháng trước và tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2023. Tháng 2/2024, nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi từ Úc của Việt Nam đạt 14,5 triệu USD giảm 43% so với tháng trước và tăng 33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trâu bò sống và thịt trâu, bò đông lạnh là những mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất, với trị giá nhập khẩu lần lượt là 7,4 triệu USD và 3,98 triệu USD.

BẢN TIN THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM - TUẦN 12 (18/3-22/3)

26-3-2024

Trong tuần 11, giá trung bình thịt bò đùi và thịt bò thăn đều giảm so với tuần trước đó. Giá trung bình thịt bò đùi là 201,2 nghìn VNĐ/kg, giảm 0,1% so với tuần 9. Giá trung bình thịt bò thăn là 228,3 nghìn VNĐ/kg, giảm 0,3% so với tuần 10. Giá trung bình thịt bò hơi là 82 nghìn VNĐ/kg, giảm 0,8% so với tuần trước đó. Tính từ đầu năm 2024 đến nay, giá thịt bò hơi tương đối ổn định, giao động trong khoảng từ 82-83,7 nghìn VNĐ/kg.

BẢN TIN THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM - TUẦN 11/2024 (4/3-15/3)

19-3-2024

Trong tuần 10, giá thịt bò thăn có dấu hiệu tăng trở lại ở mức 229 nghìn VNĐ/kg, tăng 8,3% so với tuần 9. Cũng trong tuần này giá thịt bò đùi là 201,3 nghìn VNĐ/kg tăng nhẹ 0,1% so với tuần trước. Giá trung bình thịt bò hơi cả nước là 82,7 nghìn VNĐ/kg, tăng 0,1% so với tuần trước đó. • Đối với bò địa phương, trong tuần 10, giá thấp nhất được ghi nhận ở Miền Trung-Tây Nguyên là 60.000 VNĐ/kg, trong khi giá cao nhất được ghi nhận ở Miền Bắc là 73 nghìn VNĐ/kg. Đối với bò BBB, trong tuần này, giá thấp nhất được ghi nhận ở miền Nam là 72 nghìn VNĐ/kg và cao nhất ở Miền Bắc là 83 nghìn VNĐ/kg.

BẢN TIN THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU BÒ VIỆT NAM - TUẦN 10/2024 (4/3-8/3)

9-3-2024

Trong tuần 9, giá trung bình thịt bò đùi là 201,1 nghìn VNĐ/kg giảm 7,8% so với tuần 8, đây cũng là mức giá thấp nhất kể từng tháng 9/2023, ngang bằng với giá của tuần 1/2024. Thông thường thịt bò thăn luôn có giá cao hơn từ 13 đến 20 nghìn VNĐ/kg so với thịt bò đùi, nhưng trong tuần này giá thịt bò thăn giảm mạnh tới 8,4% so với tuần trước và hiện có giá 211,5 nghìn VNĐ/kg. Giá trung bình thịt bò hơi là 82,6 nghìn VNĐ/kg, giảm 0,5% so với tuần trước đó. Theo các thương lái địa phương, giá bò BBB và bò Charolais ở miền Bắc cao hơn miền Nam.

BẢN TIN THÁNG 2/2024 THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM

6-3-2024

Tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam trong tháng 1/2024 đạt 15,4 triệu USD, giảm 56% so với tháng trước và giảm 4% so với cùng kỳ năm 2023. Trong tháng này, Viêt Nam không xuất khẩu trâu bò sống (HS 0102). Hầu hết các sản phẩm thịt xuất khẩu trong tháng này đều biến động nhiều so với tháng trước trong đó xuất khẩu thịt và phụ phẩm sau giết mổ của gia cầm thuộc nhóm HS 01.05 tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh tăng 87% so với tháng trước; xuất khẩu thịt và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ giảm 91%. Tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam trong tháng 1/2024 đạt 159 triệu USD, giảm 1,2% so với tháng trước và tăng 76,2% so với cùng kỳ năm 2023. Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi từ Úc trong tháng này của Việt Nam đạt 25,5 triệu USD giảm 3% so với tháng trước và tăng 61% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trâu bò sống và thịt trâu, bò đông lạnh là những mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất, với trị giá nhập khẩu lần lượt là 13,2 triệu USD và 7,3 triệu USD.

BẢN TIN THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM - TUẦN 8 (19/2-23/2)

28-2-2024

Trong tuần 8, giá trung bình thịt bò đùi và thịt bò thăn đều giảm so với tuần trước. Thịt bò đùi có giá là 203 nghìn VNĐ/kg, giảm 0,2%, giá trung bình thịt bò hơi là 82,7 nghìn VNĐ/kg, tăng 0,8% so với tuần trước đó. • Theo thương lái tại các địa phương, giá hơi thịt bò BBB và bò kem (Charolais) ở khu vực các tỉnh miền Nam đang có giá thấp hơn miền Bắc. Cụ thể, trong tuần 8, giá bò BBB tại miền Nam là 72-76 nghìn VNĐ/kg và miền Bắc là 77-81 nghìn VNĐ/kg, giá hơi thịt bò kem (Charolais) ở miền Nam là 68-70 nghìn VNĐ/kg và miền Bắc 75-78 nghìn VNĐ/kg. Mức giá hơi thịt bò kem tương đối ổn định từ tuần 4 đến nay.

BẢN TIN THỊ TRƯỜNG THỊT TRÂU, BÒ VIỆT NAM - TUẦN 7 (5/2-16/2)

27-2-2024

Trong tuần 6, giá trung bình thịt bò đùi là 203,3 nghìn VNĐ/kg tăng 0,8% so với tuần 5. Giá trung bình thịt bò thăn trong trong tuần này tăng 1,8% so với tuần trước lên 233,3 nghìn VNĐ/kg, giá trung bình thịt bò hơi cả nước là 82 nghìn VNĐ/kg, giảm 0,4% so với tuần trước đó. Đối với bò địa phương, giá thấp nhất được ghi nhận ở Miền Trung-Tây Nguyên là 60.000 VNĐ/kg, trong khi giá cao nhất được ghi nhận ở Miền Bắc là 74 nghìn VNĐ/kg. Đối với bò BBB, trong tuần 6, giá thấp nhất được ghi nhận ở miền Nam là 72 nghìn VNĐ/kg và cao nhất ở Miền Bắc là 86 nghìn VNĐ/kg. Giá thịt bò hơi BBB ở Miền Bắc trong tuần 6 cao hơn các vùng khác từ 3-10 nghìn VNĐ/kg