TIN TỨC-SỰ KIỆN

Tăng cường liên kết trong sản xuất hàng hoá

Ngày đăng: 30 | 11 | 2005

Từ sau đổi mới, sản xuất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Hồng đã có những bước phát triển đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào tăng thu nhập và tạo ra công ăn việc làm ở khu vực nông thôn. Giai đoạn 1988-2003, sản lượng lúa của vùng đã tăng từ 3 triệu tấn lên 6,5 triệu tấn.

Từ sau đổi mới, sản xuất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Hồng đã có những bước phát triển đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào tăng thu nhập và tạo ra công ăn việc làm ở khu vực nông thôn. Giai đoạn 1988-2003, sản lượng lúa của vùng đã tăng từ 3 triệu tấn lên 6,5 triệu tấn. |Tuy nhiên, nông thôn đồng bằng Sông Hồng đang phải đối mặt với những thách thức gay gắt của áp lực về dư thừa lao động, thu nhập tăng chậm, và sản xuất hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và khắt khe của thị trường trong bối cảnh công nghiệp hoá, đô thị hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng nhanh mạnh. Đứng trước các khó khăn nêu trên, câu hỏi đặt ra là những hướng đi nào thích hợp để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp của đồng bằng Sông Hồng? Có thể nói rằng, các câu trả lời đều có thể tìm thấy từ thực tiễn sinh động của địa phương.

 

Trong nhiều năm qua, dự án DIALOGS (do các tổ chức phi chính phủ châu Âu GRET, MdM, VECO, AFDI, HN) đã triển khai ở Hải Dương mô hình liên kết trong sản xuất chăn nuôi lợn. Thực tế triển khai ở Hải Dương cho thấy mô hình hợp tác xã (HTX) đã giúp nông dân chăn nuôi lợn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ vào chăn nuôi, tiếp cận dịch vụ vật tư đầu vào giá rẻ, trao đổi thông tin kỹ thuật, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đây là một kinh nghiệm hay trong qúa trình đi lên từ hộ tiểu nông lên sản xuất hàng hoá. Các bài tham luận và các phát biểu của các chuyên gia, cán bộ lãnh đạo địa phương, và nông hộ chăn nuôi trong buổi hội nghị ngày 29/11/2005 “Giới thiệu kết quả của dự án DIALOGS và thảo luận về tính bền vững của các hoạt động” tại huyện Nam Sách, Hải Dương, đều nhất trí về những thay đổi rất tích cực do qúa trình liên kết sản xuất tạo ra. Mô hình HTX chăn nuôi lợn ở Hải Dương thành công nhờ vào lợi thế kinh tế của sự hợp tác, tuy nhiên yếu tố quyết định, đặc biệt trong giai đoạn đầu là những hỗ trợ về mặt kỹ thuật của dự án DIALOGS trong các hoạt động từ việc phát triển bộ máy tổ chức như quản lý, tài chính, đến các vấn đề kỹ thuật như kỹ năng chăn nuôi, xây dựng chuồng trại, y tế...Những sự hỗ trợ ban đầu này đã tạo nên nền tảng cho HTX hình thành và phát triển. Hội thảo cũng đặt ra những vấn đề cần được thảo luận và tiếp tục phân tích làm rõ hơn nữa như:

1.      Vai trò của chính quyền địa phương trong việc duy trì và nhân rộng mô hình HTX;

2.      Đối phó của HTX với những thách thức trong giai đoạn phát triển tiếp theo;

3.      Vai trò của công tác nghiên cứu và hoạch định chính sách trong việc tổng kết và nhân rộng mô hình ra các địa phương khác.

 

Những thông tin về dự án DIALOGS có thể tham khảo trên địa chỉ www.gret.org.vn

Phạm Quang Diệu

NỘI DUNG KHÁC

Hàn Quốc thay đổi chính sách đầu tư

25-11-2005

Năm 2005 là điểm mốc đáng ghi nhớ khi chính phủ Hàn Quốc thực hiện thay đổi về cơ bản chính sách đầu tư, chuyển từ chính sách tập trung thu hút FDI vào trong nước và hạn chế đầu tư ra nước ngoài, sang thúc đẩy các công ty và cá nhân đầu tư mạnh mẽ ra nước ngoài.

Hàn Quốc với những trục trặc về động cơ tăng trưởng

25-11-2005

Dự báo nếu đồng won tiếp tục lên giá so với đồng USD, xu hướng tiêu dung yếu của thị trường xuất khẩu và trong nước sẽ ảnh hưởng không tốt tới tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu của Hàn Quốc, nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới. Dự báo cả năm 2005 tốc độ tăng trưởng GDP tiếp tục giảm còn 3% và thậm chí xuống thấp tới 2% trong năm tới.

Về mối quan hệ giữa sản xuất nông nghiệp hàng hoá và vấn đề thông tin thị trường hiện nay

25-11-2005

Chính sách đổi mới của Đảng ta đã đưa nông nghiệpViệt nam thoát khỏi con đường sản xuất tự cấp, tự túc để bước vào con đường sản xuất nông nghiệp hàng hoá với những thành công đáng kể trong thập kỷ 90. Sản lượng xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản đứng hạng nhất nhì thế giới như gạo, cà phê, hồ tiêu… đã đóng góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Mô hình phát triển của Thuỵ Điển

10-11-2005

Ngày 09 tháng 11 năm 2005, tại khách sạn Sofitel Plaza, Hà Nội đã diễn ra cuộc hội thảo về kinh nghiệm phát triển của Thuỵ Điển.

Phát triển bền vững và thương mại nông sản quốc tế ở các nước Đông Nam Á

3-11-2005

Ngày 31 tháng 10 năm 2005, tại Sofitel Plaza, Hà nội diễn ra Hội nghị cấp cao lần thứ 36 của Uỷ ban Chính sách Thương mại nông sản và Lương thực Quốc tế (IPC) về “Phát triển bền vững và thương mại nông sản quốc tế ở các nước Đông Nam Á”.

Kế hoạch Hành động Quốc gia về An toàn thực phẩm

28-10-2005

Ngày 28 tháng 10 năm 2005, tại Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tiến sĩ Bộ trưởng  Cao Đức Phát và Giám đốc Ngân hàng Thế giới Klaus Rohland đã chủ trì Hội nghị tư vấn cấp cao  Kế hoạch Hành động Quốc gia về An toàn thực phẩm, thú y và bảo vệ thực vật.

Xây dựng chiến lược phát triển nông thôn mới

27-10-2005

Ngày 27 tháng 10 tại Viện Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp&PTNT đã diễn ra hội thảo "Đóng góp cơ sở khoa học cho phát triển nông nghiệp nông thôn 2005-1010". Đến dự hội thảo có đông đảo các đại diện các Vụ thuộc Bộ Nông nghiệp và các Bộ ngành liên quan, các chuyên gia trong nước và các tổ chức Quốc tế như WB, ADB, UNDP…

Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của một số ngành sản xuất nguyên liệu chế biến TACN (ngô, đậu tương) ở Việt Nam

11-10-2005

Sản xuất ngô và đậu tương ở nước ta những năm qua đã đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Diện tích năng suất và sản lượng tăng nhanh, tỷ lệ diện tích sử dụng các giống mới có năng suất cao và chất lượng tốt ngày càng tăng lên. Hiện nay, ở nhiều nơi, ngô và đậu tương là cây trồng chủ lực trong cơ cấu cây trồng và đóng góp phần lớn vào thu nhập của hộ gia đình. Cây ngô đã mang lại cuộc sống ấm no cho đồng bào các dân tộc ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên. Nhờ trồng ngô và đặc biệt là các giống ngô lai mà đồng bào các dân tộc vùng cao đã có cuộc sống ổn định, nhiều gia đình trở thành giàu có mua được cả xe máy, ti vi và các tiện nghi sinh hoạt đắt tiền khác.

Nghiên cứu thực tiễn dồn điền, đổi thửa ở một số tỉnh và đề xuất chính sách khuyến khích dồn điền đổi thửa nâng cao hiệu quả sử dụng đất ở Đồng bằng Sông Hồng

11-10-2005

“Khái niệm dồn điền đổi thửa (DĐĐT) (Regrouping of lands, trong tiếng Anh, hay Remenbrement, trong tiếng Pháp) là việc tập hợp, dồn đổi các thửa ruộng nhỏ thành thửa ruộng lớn, trái ngược với việc chia các mảnh ruộng to thành các mảnh ruộng nhỏ. Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiên DĐĐT, Một là để cho thị trường ruộng đất, và các nhân tố phi tập trung tham gia vào, Nhà nước chỉ hỗ trợ sao cho cơ chế nay vận hành tốt hơn.

Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động xã hội của ngành công nghiệp mía đường trong bối cảnh hội nhập quốc tế

11-10-2005

Nghiên cứu về ngành mía đường cho thấy bức tranh tổng quan của ngành là tương đối ảm đảm. Các số liệu đều khẳng định ngành mía đường Việt Nam có khả năng cạnh tranh kém về mọi mặt từ chất lượng và năng suất mía đến hiệu quả hoạt động và giá thành sản xuất của các nhà máy chế biến. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là ở chỗ khả năng cạnh tranh của toàn ngành mía đường bị hạn chế phần nhiều do những nguyên nhân chủ quan hơn là nguyên nhân khách quan. Việt Nam vẫn có những nhà máy đường làm ăn có lãi, những vùng mía đạt năng suất cao với chữ đường khá nên hoàn toàn đủ sức cạnh tranh với đường thế giới. Chính những nhà máy đầu tư không đúng chỗ, hoạt động kém hiệu quả, những vùng mía phát triển tràn lan, không phù hợp đã kéo toàn bộ ngành mía đường của Việt Nam tụt hậu.

Nâng cao cạnh tranh của ngành cà phê robusta Việt Nam

11-10-2005

Để cung cấp thêm căn cứ khoa học, tham mưu cho lãnh đạo và các cơ quan chức năng trong Bộ lập chính sách và quản lý thị trường liên quan đến ngành hàng, năm 2002, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã thành lập nhóm chuyên gia ngành hàng trong khuôn khổ Dự án "Tăng cường năng lực thông tin phục vụ công tác hoạch định chính sách nông nghiệp với tài trợ của Bộ Ngoại giao Pháp. Các ngành hàng được lựa chọn gồm: lúa (gạo), chăn nuôi, rau quả, cà phê cao Su, Chè, hồ tiêu, điều, mía đường.

Đánh giá kinh tế xã hội của quản lý dịch hại trong sản xuất lúa ở Việt Nam

6-10-2005

Ts. Đỗ Kim Chung, TS. Kim Thị Dung Nhà xuất bản nông nghiệp - 2002 Giới thiệu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các ứng xử ra quyết định của người nông dân và các kiến thức bản địa của họ về quản lý dịch hại trong sản xuất lúa, đồng thời đánh giá những lợi ích kinh tế xã hội mà chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đã mang lại đối với ngành sản xuất lúa ở Việt Nam.

©2025 Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Môi trường
Số 16 Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội
Tel: 04-39722067, Fax: 84-4-39711062, Email: vienclcs@mae.gov.vn