TIN TỨC-SỰ KIỆN

Hộ kinh doanh cá thể ở nông thôn: "Xây dựng bộ chỉ số để tăng năng lực cạnh tranh"

Ngày đăng: 28 | 02 | 2011

Ngày 25/2/2011, Viện Chiến lược chính sách nông nghiệp nông thôn (Ipsard) đã tổ chức Hội thảo Báo cáo kết quả nghiên cứu xây dựng “Chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh về môi trường kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể (PFI)” tại khu vực nông thôn.

Ông Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện IPSARD đề xuất xây dựng một chỉ số nhằm đánh giá môi trường kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể (KDCT). Chỉ số này sẽ giúp xác định được mối tương tác chính thức và phi chính thức giữa các hộ KDCT và chính quyền và sự khác biệt giữa các địa phương.
 
Ông Phùng Đức Tùng, Trưởng nhóm nghiên cứu PFI cho biết,  quy mô vốn của mỗi hộ KDCT rất nhỏ, trung bình trên cả nước chỉ 80 triệu đồng/hộ. Quy mô lao động cũng vô cùng thấp, bình quân mỗi hộ kinh doanh chỉ có 1,8 lao động. Trong đó, 98% số hộ sử dụng ít hơn 5 lao động; 56% chỉ sử dụng 1 lao động. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra 500 hộ KDCT tại 10 huyện thuộc 2 tỉnh Bắc Ninh và Vĩnh Phúc để đánh giá chỉ số PFI tại 2 tỉnh này năm 2010: PFI của Bắc Ninh đạt 5,9; Vĩnh Phúc đạt 6,6. Tại 2 tỉnh, số lao động trung bình tại mỗi hộ KDCT tới 3,7 người, trong đó có 2 lao động là người trong gia đình, như vậy con số này cao hơn hẳn mức bình quân chung của cả nước. Năm 2010 đã có sự tăng trưởng tương đối về vốn, vốn kinh doanh trung bình tại 2 tỉnh này đạt 163 triệu đ/hộ, tăng 27% so với năm 2009, và cao gấp đôi mức bình quân chung cả nước. Lợi nhuận trung bình trong năm qua đạt 10,1 triệu đ/hộ; tăng 15,7% so với năm trước đó, tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu chỉ đạt 8,3%, thấp hơn cả lãi suất phải trả nếu vay vốn từ ngân hàng. Vốn tự có của các hộ KDCT chiếm tới 80% tổng số vốn kinh doanh của họ, vốn vay ngân hàng chỉ chiếm 15%, còn lại là vay từ nguồn khác. Đa số các hộ đều cho rằng, rất khó tiếp cận với vốn vay ngân hàng, mà nếu có vay được thì với lãi suất phải trả cao như hiện nay thì kinh doanh chắc chắn thua lỗ. Mặt bằng kinh doanh của các hộ rất hạn chế, diện tích trung bình chỉ 120m2/hộ và chỉ có 4% số hộ KDCT sử dụng mặt bằng nhà nước giao hoặc đi thuê. Việc tuyển dụng lao động không phải là vấn đề khó khăn đối với các hộ KDCT. Tuy nhiên chất lượng lao động lại là trở ngại lớn, chỉ có 44% số lao động thuê ngoài được các hộ đánh giá là đáp ứng được yêu cầu công việc kinh doanh. Đối tượng khách hàng của các hộ KDCT chủ yếu là người tiêu dùng, tiếp theo là các hộ KDCT khác và nông dân cần mua vật tư nông nghiệp. Khu vực này rất hạn chế trong việc bán sản phẩm cho các doanh nghiệp, chỉ có 0,5% số hộ là tiếp cận được với nhóm khách hàng này.
 
Có 40% số hộ KDCT trên cả nước tham gia nộp ít nhất một loại thuế cho nhà nước. Riêng tại 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Bắc Ninh, có khoảng 70% số hộ KDCT có nộp thuế, trong đó 53% nộp thuế môn bài. Nhìn chung, các thủ tục hành chính nhà nước không phải là trở ngại đối với các hộ KDCT, vì chỉ có 7% số cơ sở thuộc loại hình này phải tiếp xúc với các cơ quan nhà nước để giải quyết các thủ tục hành chính, bởi vậy chi phí không chính thức của các hộ KDCT không đáng kể. Mặc dù không phàn nàn gì về bộ máy nhà nước ở cấp cơ sở, nhưng đa số các hộ KDCT lại phàn nàn về chất lượng hạ tầng tại khu vực nông thôn: 25% số hộ cho rằng đường xá đã ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Để đánh giá thiết lập chỉ số PFI, nhóm nghiên cứu đã phân tích nhân tố và hồi quy 9 chỉ số thành phần: tiếp cận về đất đai; tiếp cận nguồn vốn; lao động; thị trường đầu ra; cơ sở hạ tầng; gia nhập thị trường; chi phí không chính thức; luật pháp, chính sách; hỗ trợ của nhà nước.
 
Ông Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế trung ương cho rằng: “Ở Việt Nam đang có nguy cơ loạn các chỉ số, bởi vậy khi đưa ra chỉ số nào cũng phải chú trọng đến tính thiết thực của nó. Bản chất của chỉ số khi đưa ra là để tạo sức ép cho một địa phương, một cơ quan nào đó phải có giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh. Muốn làm như vậy, trên cơ sở của chỉ số, phải đưa ra được danh sách những địa phương có môi trường cạnh tranh tốt nhất, những địa phương kém nhất. Đánh giá về kinh doanh của các hộ cá thể, nhân tố quan trọng nhất phải là chỉ số về tăng trưởng trong kinh doanh, khả năng sinh lợi nhuận của các hộ”.
 
Bà Phạm Chi Lan nêu vấn đề, nghiên cứu Chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh của các hộ KDCT có cần thiết hay không? Bởi vì chỉ số này không biết là muốn chỉ ra năng lực canh tranh của các hộ KDCT hay đây là chỉ số về môi trường kinh doanh của họ. Nếu muốn gây tác động khiến các cấp chính quyền địa phương có những cơ chế chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh thì nên đánh giá môi trường kinh doanh. Còn nếu đánh giá năng lực nội tại của bản thân các hộ kinh doanh thì rất khó, và đây cũng là cơ sở để các địa phương có những chương trình hỗ trợ tư vấn, tập huấn cho các hộ biết cách buôn bán. Nếu đề cập đến hộ KDCT ở khu vực nông thôn thì chỉ nên đánh giá ở cấp huyện, xã; chứ không nên đánh giá cấp tỉnh, vì địa bàn tỉnh có cả các Tp, thị xã không phải là nông thôn. Bản nghiên cứu cũng đã quên một số chỉ tiêu thành phần quan trọng, bên cạnh chỉ số về cơ sở hạ tầng giao thông, cũng cần tính đến hạ tầng kinh doanh thương mại như chợ, kiot, kho hàng, địa điểm giao dịch...
 
Tác giả Chu Khôi
 
Agroinfo theo Chu Khôi

NỘI DUNG KHÁC

Nông nghiệp Việt Nam 65 năm xây dựng và phát triển

28-2-2011

Năm 2010 là năm kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Bộ Canh nông với nhiệm vụ chăm lo phát triển ngành nông lâm nghiệp của nước nhà. Bác đã nói trong cuộc Họp Hội đồng Chính phủ ngày 14-11-1945: Việt Nam là một nước chuyên về nông nghiệp, 95% dân số Việt Nam sống về đồng ruộng. Muốn giải quyết vấn đề canh nông vừa về phương diện xã hội, vừa về phương diện chuyên môn, cần phải có một cơ quan tối cao.

Xây dựng nông thôn mới từ phong trào "Mỗi làng một sản phẩm"

28-2-2011

Hiện cả nước có hơn 2.700 làng nghề, sử dụng gần 30% lực lượng lao động ở nông thôn, tuy nhiên, kết quả phát triển làng nghề chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của yêu cầu phát triển. Từ thành công của phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm" trên thế giới, Việt Nam đang thực hiện chương trình "Mỗi làng một nghề" có mục đích thúc đẩy phát triển các làng nghề theo hướng chuyên nghiệp, khuyến khích người dân trong việc tận dụng nguồn lực địa phương, phát huy sức mạnh cộng đồng và bảo tồn các làng nghề truyền thống. Cơ hội tạo sức cạnh tranh của các sản phẩm truyền thống trên thị trường Việt Nam và thế giới đang phải được song hành và gắn kết với việc phát triển nông thôn mới ở các làng nghề.

Kinh tế hộ gia đình lần đầu được nghiên cứu

28-2-2011

“Thị trường nông thôn đang bị “bỏ ngỏ”, các doanh nghiệp trong nước thì “chê” vì sức mua kém. Vậy tại sao không phát triển tốt kinh tế hộ gia đình?”.

Sẽ có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp huyện

28-2-2011

Ông Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (IPSARD) cho hay, Viện này đang xây dựng Chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh về môi trường kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể (PFI). Theo đó, IPSARD sẽ đánh giá cả năng lực cạnh tranh cấp huyện về chỉ số PFI.

Khủng hoảng lương thực "giả" 2007 đang lặp lại?

24-2-2011

Theo mạng tin Hong Kong Asia Sentinel, tuần trước Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra cảnh báo giá lương thực toàn cầu đã lên đến những mức đáng báo động có thể gây ra “bất ổn vĩ mô,” trong đó có bất ổn chính trị.

Từ PCI đến PFI

23-2-2011

Việc Việt Nam đã xây dựng và cho ra đời nghiên cứu chỉ số PCI hàng năm đem lại nhiều lợi ích cho hoạch định và xây dựng chính sách. Song, nghiên cứu và bổ sung nghiên cứu chỉ số PFI sẽ giúp hoàn thiện hơn, khắc phục những “hạn chế về mặt phương pháp luận” của chỉ số PCI. Viện chính sách và chiến lược phát triển Nông thôn vừa hoàn thành nghiên cứu về chỉ số PFI tại 2 tỉnh Bắc Ninh và Vĩnh Phúc.

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

23-2-2011

Hội thảo Báo cáo kết quả nghiên cứu xây dựng “Chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh về môi trường kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể (PFI)

Lúa gạo Việt Nam trước vận hội mới

23-2-2011

(ĐCSVN) - Trong vòng mấy năm trở lại đây, chưa năm nào sản xuất nông nghiệp của chúng ta nói chung, sản xuất lúa gạo nói riêng lại đứng trước khó khăn, nghiệt ngã như vụ sản xuất đông – xuân này. Nhưng cũng chưa mấy khi sản xuất lúa gạo Việt Nam đứng trước những vận hội mới như hiện nay.

Khủng hoảng lương thực: Mối lo ngại của toàn thế giới

16-2-2011

(ĐCSVN) – Giá lương thực toàn cầu tăng cao kỷ lục trong tháng 1 vừa qua đã khiến nhiều quốc gia trên thế giới lâm vào tình trạng bất ổn và là một thách thức lớn khiến Liên hợp quốc lo ngại. Trong thời gian tới, nếu không có các biện pháp bình ổn giá lương thực, thế giới sẽ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng lương thực mới và những hệ lụy của nó sẽ tác động đến kinh tế-chính trị toàn cầu.

Để người trồng lúa hưởng lợi nhiều hơn: Phải “thiết kế” lại chính sách phát triển

16-2-2011

Sau rất nhiều cố gắng, năm 2010, nước ta đã xuất khẩu được 6,7 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch trên 3,1 tỷ USD, con số kỷ lục từ trước đến nay. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là các chính sách liên quan đến xuất khẩu có thực sự tạo động lực cho ngành lúa gạo phát triển và người nông dân được hưởng lợi bao nhiêu từ chuỗi giá trị này?

Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm an sinh xã hội

14-2-2011

Thủ tướng Chính phủ vừa có Công điện yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương sau kỳ nghỉ Tết tiếp tục chỉ đạo thực hiện toàn diện các nhiệm vụ đề ra, ưu tiên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội.

THƯƠNG MẠI – NHÂN TỐ TÍCH CỰC TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TĂNG GIÁ LƯƠNG THỰC

26-1-2011

Diễn văn khai mạc của ông Tổng thư ký WTO – Pascal Lamy tại Hội nghị cao cấp Bộ trưởng Nông nghiệp tại Berlin ngày 22 tháng 1 năm 2011