HỘI THẢO

Lý thuyết về lợi thế so sánh

Ngày đăng: 22 | 01 | 2008

Lý thuyết về những lợi thế so sánh đã được David Ricardo (1772-1823) nêu ra. Lý thuyết này xác định những cái lợi của thương mại bằng cách chứng minh rằng trao đổi, với những sự chuyên môn hóa mà nó tạo nên,đem lại lợi ích cho tất cả những người cùng trao đổi với nhau. Mỗi nền kinh tế địa phương ắt sẽ có lợi trong việc chuyên môn hóa trong một hay một số khu vực có một lợi thế so sánh cho dù đó là nguồn nhân công dồi dào hay rẻ tiền, hay là tài nguyên khoáng sản và các tiềm năng về năng lượng: than đá, dầu mỏ, …

David Ricardo (1772 - 1823)

David Ricardo là con thứ 3 trong số 17 người con, trong gia đình rất thành đạt. Cha ông là người làm ngân hàng giàu có. Lúc đầu ở Hà-Lan, sau chuyển tới London. David học không nhiều và đi làm cho cha khi 14 tuổi. Khi 21, ông cưới vợ trái ý gia đình và bị tước thừa kế, ông lập công ty môi giới chứng khoán. Ricardo thành công như một hiện tượng và ông về hưu tuổi 42, tập trung viết lách và chính trị; đóng góp nhiều cho lý thuyết kinh tế; là bạn của nhiều nhà kinh tế học cổ điển Thomas Malthus và Jean-Baptiste Say. Cùng với Malthus ông mang quan điểm bi quan về tương lai lâu dài của xã hội. Tuy vậy, phần lớn tư tưởng học thuyết Ricardo ngày nay vẫn còn giá trị lớn và được giảng dạy rộng rãi. Các ấn phẩm của Ricardo đương thời không bán chạy lắm, nhưng qua thời gian loài người đã nhận thức đúng giá trị to lớn của chúng. Phần lớn các lý thuyết của ông tập trung vào lĩnh vực thị trường tiền tệ, và chứng khoán, bao gồm:

- Giá vàng cao, một bằng chứng xuống giá của giấy nợ ngân hàng (1810);

- Trả lời các quan sát của Bosanquet về báo cáo của Bullion Committee (1811);

- Đề xuất về đồng tiền an toàn và tiết kiệm (1816)

Tác phẩm quan trọng về kinh tế học thị trường:

- Luận văn về ảnh hưởng của giá ngô thấp và lợi nhuận của cổ phiếu (1815);

- Các nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khoá (1817).

Lý thuyết về lợi thế so sánh

Một học thuyết chủ đạo mà Ricardo đã phát triển ngày nay vẫn là những nền tảng quan trọng là lý thuyết thương mại quốc tế (lợi thế so sánh): Ricardo tập trung phân tích chi phí so sánh và tìm hiểu bằng cách nào để một quốc gia thu lợi được từ thương mại khi chi phí thấp hơn tương đối. Ví dụ: thương mại rượu vang và vải giữa Anh và Bồ đào nha. Ricardo chỉ ra rằng nếu một quốc gia sản xuất hàng hoá ở chi phí cơ hội thấp hơn, thì nên chuyên môn hoá vào đó. Và tham gia trao đổi hàng hoá quốc tế với quốc gia chuyên môn hoá ngành hàng khác. Chẳng mấy khó khăn để nhận ra Bồ đào nha thì nên chuyên môn hoá ngành gì trong lựa chọn Rượu vang hay vải! Lý thuyết này vẫn đúng ngày nay. Nếu tất cả các quốc gia đều chuyên môn hoá vào các lĩnh vực họ có lợi thế so sánh, mức phúc lợi toàn cầu sẽ tăng lên đáng kể.

Lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế, khi các quốc gia tập trung chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi những mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc những mặt hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi.

Thí dụ điển hình về lợi thế so sánh của Ricardo là thí dụ về trao đổi bông/rượu Porto giữa Bồ Đào Nha và Anh. Nếu Bồ Đào Nha không thể sản xuất vải trong những điều kiện thuận lợi như ở Anh, nghĩa là nếu họ phải dành nhiều thời gian và lao động hơn Anh, thì họ lại có lợi thế trong việc sản xuất rượu vang và họ dùng làm phương tiện trao đổi để mua vải bông ở Anh, nước này lại không thể sản xuất rượu vang trong những điều kiện thuận lợi như ở Bồ Đào Nha.

Như vậy lý thuyết này đối lập với lý thuyết về tự cung tự cấp. Như John Stuart Mill đã viết:

“ Nếu hai nước mua bán với nhau tìm cách tập trung cả kảh năng vật chất của mình để sản xuất ra những thứ mà họ hiện đang nhập của nhau, thì nhân công và tư bản hai nước sẽ không được sử dụng có hiệu quả, cả hai nước gộp lại sẽ không thể thu được từ nền công nghiệp của mình một lượng hàng hóa lớn như khi mỗi nước tìm cách sản xuất, cả cho bản thân mình cunx như cho nước kia, những của cải mà nhân công sản xuất của mính thành thạo hơn. Số của cải sản xuất trội ra của hai nước kết hợp với nhau tạo thành cái lợi của thương mại.”

Nói chung có thể hiểu là sản xuất trong nước cái mà nước khác có khả năng sản xuất với giá rẻ hơn thì sẽ là hoàn toàn không hợp lý.

Tuy nhiên lại đặt ra vấn đề là giải quyết lao động, bảo hộ nền công nghiệp, cán cân thương mại XNK . . .

Nói kỹ hơn, giả thiết về sự ngang nhau của các lợi thế và sự đảm bảo phát triển mà lợi thế so sánh và thương mại tạo ra có thể dễ dàng bị bác bỏ, chủ yếu bởi vì những người trao đổi với nhau không bao giờ ngang nhau, không dùng chung một công nghệ, không cùng một năng lực đầu tư, vận hành, không có những cơ cấu chính trị xã hội và kinh tế giống nhau, thậm chí đơn giản vì vị trí địa lý khác nhau.

Người ta biết cuộc tranh luận gay gắt mà Canada phải trải qua trong cả năm 1988 về thỏa ước tự do trao đổi với Mỹ. Dù cho Canada và Mỹ là hai nước có ngang nhau đi nữa, thì sự tự do hóa hoàn toàn việc trao đổi thương mại thì hiển nhiên là có vấn đề và nhiều nỗi lo ngại; liệu Canada có phải từ bỏ những chương trình xã hội của mình là những cái làm giảm sức cạnh tranh của họ hay không? Có những ngành sản xuất lớn liệu có phải bỏ đi hết không vì không tồn tại tình trạng thi đua giữa hai bên ngang nhau. Và nói chung là có rất nhiều vấn đề. . .

Thế nhưng vấn đề đặt ra ở đây là:

1. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vẫn chỉ là một nước luôn có được tất cả các lợi thế so sánh?

2. Tình hình sẽ ra sao nếu một nước dễ dàng xóa đi lợi thế so sánh của các nước khác?

3. Giữa nước X và nước Y sẽ xảy ra chuyện gì đối với kẻ không có hay không còn có một lợi thế so sánh nào?

4. Sự giảm sút các điều kiện trao đổi sẽ dẫn tới những hiện tượng gì?

Phân tích đến cùng, chính cái giá trị gia tăng là cái cho phép đánh giá xem việc trao đổi đó là lý tưởng hay không, nó có biểu hiện một sự bất bình đẳng trong phát triển và một sự chuyên môn hóa làm nghèo đi hay không? Chính điều này theo Ricardo đã tác động bất lợi cho Bồ Đào Nha. Nước này, một là đã chuyên môn hóa trong một ngành mà có giá trị gia tăng thấp và hai là không tăng trưởng được. Còn nước Anh thì ngược lại. Nếu thực là như vậy thì đó là những tiền đề làm trì trệ kinh tế Bồ Đào Nha và ngược lại là những điều kiện tăng tiến cho nền kinh tế Anh.

Tuy nhiên đây chỉ là một khía cạnh trong thương mại. Còn rất nhiều vấn đề khác cần nghiên cứu.

NỘI DUNG KHÁC

"Máy chém" cho chính sách có hại

17-1-2008

Với sự kiện một số địa phương hoãn lệnh cấm xe ba gác, xe công nông, sau Nghị định 32 bị coi là xây dựng vội vàng, kế hoạch cấm bán hàng rong tại Hà Nội gây nhiều băn khoăn; thông tin Bộ Tư pháp chuẩn bị rà soát hệ thống pháp luật trong hai năm 2009, 2010 đem hy vọng cho người dân về việc loại bỏ những quy định pháp luật không có lợi, góp phần làm công tác xây dựng văn bản khoa học hơn. Tuy nhiên, tiêu chí thẩm định văn bản pháp luật là vấn đề đang gây tranh luận.

Tư duy đổi mới của đồng chí Trường Chinh xuất phát từ đâu và bắt đầu như thế nào?

16-1-2008

Người lát viên gạch đầu tiên để xây lên ngôi nhà ĐỔI MỚI đó chính là Trường Chinh. Ông đã vượt lên những hạn chế của sức khỏe và tuổi già, dũng cảm tiến hành cuộc đấu tranh với những quan điểm bảo thủ, giáo điều, với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp để cùng với Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta hình thành tư duy đổi mới và xác lập đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội lần thứ VI của Đảng.

Từ quản lý kiểm soát sang quản lý để phát triển

15-1-2008

Sau một năm nhận diện lại mình, năm 2008 này, Việt Nam sẽ phải gỡ những nút thắt nào cho hội nhập? Thay đổi từ tư duy quản lý nhằm xác lập trật tự sang quản lý để thúc đẩy phát triển như thế nào để gỡ các nút thắt cho tăng trưởng. "Ông WTO" Trương Đình Tuyển và TS Trần Đình Thiên tiếp tục trao đổi với độc giả VietNamNet.

Milton Friedman: Nhà kinh tế thời đại & Giáo chủ của môn kinh tế tiền tệ

15-1-2008

Kinh tế gia vĩ đại Milton Friedman đã từ trần vào tháng 11/2006. Có thể nói, không có một nhà kinh tế học nào khác kể từ thời của Keynes định hình lại cách nghĩ về kinh tế học như Milton Friedman. Bằng phạm vi của những chủ đề và tầm quan trọng trong những ý tưởng của ông, Friedman không những đã đặt nền tảng cho kinh tế học đương thời mà ông còn xây dựng nó trở nên vững chắc. Bài viết sau đây của Paul Krugman về chân dung Friedman đề cập rất nhiều đến quá trình vận động của các quan điểm kinh tế, nhìn nhận hành vi thị trường và cách mà FED đối phó với lạm phát.

“Cải cách thể chế phải đi từ lợi ích người dân”

10-1-2008

Hội thảo “Cải cách thể chế và vai trò của cơ quan lập pháp” tại Lâm Đồng từ ngày 9 – 10 có nhiều ý kiến của các học giả, đại biểu QH nhìn nhận thẳng thắn những bất cập trong cải cách thể chế tại VN.

Trường Chinh - Tổng Bí thư của đổi mới

9-1-2008

Ba lần làm Tổng Bí thư Đảng, từng đứng ra nhận kỷ luật trước Đảng vì chỉ đạo cải cách ruộng đất, Tổng Bí thư Trường Chinh trong ký ức của nhiều người vẫn được coi là nhà lãnh đạo "hết sức cứng" như nhận xét của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Nhưng chính ông lại là chủ biên của Đổi Mới, người đã "chú ý nghe từ nhiều phía, và đặc biệt là đã coi trọng ý kiến của những cán bộ có tư duy, dám nói thật, nói rõ quan điểm của mình".

Nông nghiệp "trụ" được trước WTO, song không vững

8-1-2008

Thủ tướng CP Nguyễn Tấn Dũng nhận xét năm qua, nông nghiệp đã phát triển, cạnh tranh tốt khi Việt Nam gia nhập WTO. Thủ tướng yêu cầu, Bộ NN-PTNT cần tiếp tục rà soát, tính toán để biến thời cơ thuận lợi thành lực lượng sản xuất, sản phẩm và lợi thế cạnh tranh.

Edmund S. Phelps - nhà kinh tế của các nhà kinh tế

8-1-2008

Không có người thất nghiệp, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế cao là mục đích trọng tâm của chính sách kinh tế. Nhưng những người ra chính sách luôn phải đối mặt với sự xung đột: Làm sao để cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp? Làm sao để cân bằng giữa tiêu phí hiện nay và tích lũy sau này? Edmund S. Phelps đã đưa ra kiến thức về sự cân bằng trong 2 lĩnh vực trên. Ông đã nêu ra không chỉ công thức về tích lũy vốn mà còn cả về cách cân bằng giữa lạm phát thất nghiệp là vấn đề cơ bản để phân phối phúc lợi qua các thời kỳ. Phân tích của Phelps có tầm sâu sắc trong lý thuyết kinh tế cũng như chính sách kinh tế vĩ mô.

Một năm sau khi vào WTO: "Hội chứng" bất ngờ và ngạc nhiên!

4-1-2008

...Chúng ta đừng nghĩ chỉ vào WTO là chỉ có buôn bán mà còn cần nâng cao giáo dục, nghiên cứu. Chúng ta cần cố gắng gấp bội về giáo dục - đào tạo, cần cung cấp và tạo điều kiện cho nước ngoài vào mở trường đại học ở VN. Hội nhập rồi, đất nước cần những công dân có năng lực phát hiện, có sáng tạo chứ không phải những con người gọi dạ bảo vâng. …

Mức sống gia đình tôi giảm đáng kể

3-1-2008

Từng được chứng kiến và nghiên cứu vụ "siêu lạm phát" hồi thập niên 1980, ông Vũ Khoan - nguyên phó thủ tướng Chính phủ - đã chia sẻ suy ngẫm và phân tích về hiện tượng lạm phát chưa có hồi kết hiện nay.

Nhà cải cách Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10 (kỳ cuối)

2-1-2008

Cuối tuần đó chúng tôi đi khảo sát vùng đồng bào dân tộc. Tôi ý tứ hỏi trước Bí thư, rằng hôm nay bữa trưa “sinh hoạt” kiểu gì để còn chuẩn bị bánh mỳ hoặc cơm nắm đi theo.

Dự báo lạm phát 2008 sẽ cao hơn 2007!

2-1-2008

Tại cuộc họp báo về thống kê kinh tế - xã hội năm 2007 diễn ra sáng ngày 31/12 tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê đưa ra dự báo: Năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng sẽ tăng 8,5%, tức cao hơn 0,2% so với năm 2007.