ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Toàn cầu hoá gặp thách thức

Ngày đăng: 02 | 08 | 2009

Trước khi cuộc khủng hoảng xảy đến, toàn cầu hoá tưởng như là một xu thế khá bền vững. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu cũng đã hiện hữu một vài thách thức cụ thể.

 
Mười xu thế đáng lưu tâm thời hậu khủng hoảng:

* Các ngành công nghiệp có diện mạo mới
  
* Sự vươn lên của thị trường châu Á

Trong hơn một thập niên qua, chúng ta đã chứng kiến toàn thế giới hội nhập ở mức độ sâu và rộng chưa từng có kể từ sau Thế chiến I (nếu không muốn nói là mạnh mẽ nhất từ trước đến nay).

Từ suốt thập niên 1990 đến thời điểm ngay trước cuộc khủng hoảng hiện nay, GDP toàn cầu tăng bình quân ở mức chóng mặt: hơn 5% so với mức tăng trưởng GDP thực tế. Ấy thế mà, giá trị trao đổi mậu dịch còn lớn hơn gấp 1,5 lần còn lượng vốn lưu chuyển lớn gấp 2 lần. Sự ra đời của hệ thống cáp quang ngầm dưới biển vào những năm cuối thập niên 1990 đã làm đòn bẩy thúc đẩy sự bùng nổ của mạng lưới dữ liệu và giải phóng một lượng thông tin khổng lồ được trao đổi trên quy mô toàn cầu.

Trong hơn hai thập niên qua, các chính phủ đã ký kết hơn 200 hiệp định mậu dịch tự do, mức thuế đánh vào các mặt hàng giảm đến mức thấp chưa từng có. Cùng lúc, các nước như Trung Quốc và Ấn Độ, sau nhiều năm dài duy trì chính sách biệt lập cũng đã mở cửa và gia nhập ở mức độ sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.

Tóm lại, trong suốt giai đoạn đó, nền kinh tế toàn cầu đã trở nên gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Thế nhưng, lúc này, một câu hỏi lớn đặt ra là: liệu mọi việc có khi nào bị đảo lộn hay không?
                                                        
Với đà suy thoái hiện giờ, ít nhất một vài trong số nhiều con tuấn mã của cỗ xe toàn cầu hoá đang bị thắng dây cương. Chẳng hạn, trong năm nay, giá trị mậu dịch toàn cầu theo ước tính sẽ sụt giảm hơn 4 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu. Chính phủ một số nước sẽ tăng thuế quan và áp dụng quy định nhập cư ngặt nghèo hơn trước. Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nước Mỹ đã và đang lan ra toàn cầu, giáng một đòn mạnh vào những lĩnh vực chủ chốt như sản xuất và khai khoáng.

Tuy vậy, các diễn biến lại không nghiêng hẳn theo một chiều hướng cụ thể nào. Tốc độ toàn cầu hoá trong lĩnh vực hàng hoá và dịch vụ có thể bị đình đốn trong một thời gian bởi trao đổi mậu dịch quốc tế bị chững lại cùng với sự suy giảm về nhu cầu nhưng nó khó có khả năng bị sut giảm hoàn toàn.

Mặc dù, các chính trị gia chẳng còn mấy mặn mà với nỗ lực thúc đẩy tự do hoá mậu dịch (minh chứng là Vòng đàm phán Doha được khởi động từ năm 2001 đến nay vẫn bế tắc) nhưng nếu họ hoàn toàn quay lưng lại với mậu dịch tự do thì người dân ở nhiều nước, trong đó có người dân của chính họ, sẽ đứng trước nguy cơ thất nghiệp, giá cả tiêu dùng tăng cao và đặc biệt, động thái sẽ dập tắt các triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu.

Khi chúng ta không thể làm dịu hoàn toàn làn sóng phản đối toàn cầu hoá của những lực lượng theo chủ nghĩa dân tuý thì nên chăng chúng ta hãy cố gắng duy trì các biện pháp bảo hộ chỉ ở mức tối thiểu và khôi phục hệ thống thương mại toàn cầu để đón đầu khi tình hình sáng sủa trở lại.

Có thể ở nước Mỹ, chính phủ nước này đang ra sức hạn chế lượng pho-mát Pháp nhập khẩu (dẫn đến tình trạng người dân ở New York đổ xô đi mua cho bằng được loại pho-mát lừng danh Roquefort của Pháp) nhưng ở phía bên kia bán cầu, Hàn Quốc lại vừa ký kết hiệp định mậu dịch tự do mới với Liên minh châu Âu.

Luồng thông tin được trao đổi rộng rãi hơn bao giờ hết trong bối cảnh công nghệ thông tin và truyền thông được sử dụng ngày càng rộng rãi. Cuộc gặp gần đây của nhóm G20 thể hiện cam kết của các nhà lãnh đạo về việc mở rộng các thị trường và hướng đến mậu dịch tự do nhưng chính sách của từng quốc gia thành viên lại không nhất quán.
 
                          
Những người bi quan nhất ví những gì đang xảy đến với toàn cầu hoá tại thời điểm trước khủng hoảng giống giai đoạn trước Thế chiến I ở chỗ ai nấy đều chắc mẩm “mình biết rõ mọi thứ đang diễn ra suôn sẻ thế nào”. Mối đe doạ hàng đầu với nền kinh tế toàn cầu chính là sự thất bại của lực lượng bảo hộ chủ chốt và điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta không còn bất kỳ giải pháp nào dù là nhỏ nhất để chặn đứng bất ổn kinh tế và địa chính trị.

Cũng phải thú nhận rằng, hai giai đoạn trước khủng hoảng và đầu thế kỷ XX có những điểm trùng hợp đến kỳ lạ: sự tăng trưởng ngoạn mục của mậu dịch tự do, sự nổi lên của chủ nghĩa trọng thương mới (chẳng han, hàng loạt quốc gia từ chỗ nhòm ngó rồi đi đến chiếm hữu đất đai nông nghiệp tại châu Phi trước mối lo ngại về an ninh lương thực) và đương nhiên còn có cả niềm tin thái quá vào đà tăng trưởng vô tận của nền kinh tế.

Thế nhưng, hai giai đoạn này cũng có những điểm khác biệt căn bản. Những khác biệt rõ rệt có thể nhận thấy ngay tức thì chính là việc giờ đây, nguồn sức mạnh vô tận được khai phá từ mạng lưới viễn thông toàn cầu đã mở đường cho dòng thông tin trao đổi không ngừng nghỉ. Công nghệ điện toán thì đã tiến nhưng bước vượt bậc so với giai đoạn trước. Đó là chưa kế đến sức sáng tạo của con người tại giai đoạn này đã đóng góp cho xã hội những thành tựu không thể ngờ tới.

Đối với sự toàn cầu hoá nguồn nhân lực, dòng nhập cư của lực lượng lao động có chất lượng sẽ bị chững lại nếu các chính phủ thắt chặt quy định nhập cư trong một động thái nhằm xoa dịu người dân nước mình trước nỗi lo bị mất việc làm vào tay lực lượng lao động ngoại quốc.

Thế nhưng, dân số châu Âu đang dần già cỗi khiến lục địa này dù muốn dù không cũng phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động trong khi, các thị trường mới nổi vẫn không ngừng sản sinh ra lớp cử nhân mới ngày càng chiếm số đông trên thế giới.

Thêm nữa, công nghệ thông tin và truyền thông vẫn đang từng ngày từng giờ tạo nên mạch nguồn cho việc chia sẻ kiến thức trên quy mô toàn cầu. Nhìn chung, chúng ta có thể tin tưởng rằng thị trường toàn cầu cho các nhân lực quản lý và kỹ thuật vẫn tiếp tục tăng.

Mời đọc thêm:
  
Toàn cầu hoá và những mặt trái
   
2008 - Năm bất ổn và rối loạn của toàn cầu hóa

Toàn cầu hoá trong lĩnh vực tài chính xem ra sẽ dễ chịu tác động hơn cả. Các nhà quan sát hoàn toàn có lý khi tin rằng mối liên kết giữa các thị trường trên thế giới chính là căn nguyên khiến mọi vấn đề bị đẩy xa tới mức không thể kiểm soát nổi. Nếu xét vấn đề theo hướng tiêu cực, mối liên kết này đã gia tăng các biện pháp kiểm soát vốn (hạn chế sự phân bổ nguồn lực theo những hướng có hiệu quả cao nhất), gia tăng của các hệ thống quy định không đồng nhất, các chính sách biệt lập, và tạo ra môi trường đầy rẫy các quy định đã bó buộc sức sáng tạo.

Nếu xét vấn đề theo hướng tích cực, mối liên kết này nhìn chung đã thúc đẩy sự minh bạch trong hệ thống tài chính toàn cầu, tăng cường sự phối hợp về mặt quy định và trên cấp độ các ngân hàng trung ương cũng như củng cố các biện pháp quản lý rủi ro.

Lúc này, việc các nhà chiến lược cần bắt tay làm ngay là nghiêm túc thử nghiệm, đặt các mô hình kinh doanh của mình trong những tình huống giả định khác nhau chẳng hạn như: nếu hàng hoá, dịch vụ, nguồn vốn cùng nguồn nhân lực được tự do lưu chuyển và di chuyển công bằng giữa các quốc gia thì sao? điều gì xảy ra nếu việc lưu chuyển đó phải lệ thuộc vào một loạt các hệ thống quy định và thuế quan không đồng nhất giữa các quốc gia? và rồi, mọi chuyện sẽ thế nào nếu thế giới đứng trước tình trạng bảo hộ tràn lan?

Sở dĩ chúng ta cần đưa ra và phân tích các tình huống như vậy là để tìm ra: trong những tình huống nào thì một lĩnh vực sản xuất cụ thể nào đó có thể bị chao đảo do hàng rào thuế quan ngặt nghèo; trong tình huống nào, các cơ sở kinh doanh tại nước ngoài của doanh nghiệp có thể phải đóng cửa do họ không thể tiếp cận tới nguồn vốn hay do họ đã không thể tiến hành các hoạt động mang tính cốt lõi hoặc ở nước mình hoặc ở nước sở tại do sự hạn chế về việc di chuyển nguồn nhân lực.

Tất cả những điều này xảy đến đều do một nguyên nhân sâu xa chính là người ta không còn mặn mà gì với việc thúc đẩy sự hội nhập toàn cầu. Chủ nghĩa bảo hộ sẽ kìm hãm tốc độ phục hồi kinh tế, đẩy giá lên cao và gia tăng thất nghiệp.

Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh muốn thực hiện thành công toàn cầu hoá không phải quá khó. Nếu có quyết tâm, với sự khôn khéo của con người kết hợp với các nỗ lực chính trị, toàn cầu hoá hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Tuy nhiên, vướng mắc duy nhất nằm ở chỗ: những người có nghĩa vụ thực hiện sẽ tự hỏi liệu mình có được lợi lộc gì khi cố gắng nhiều đến vậy hay không mà thôi ?

* Nhận định: Xu thế này đang giảm dần.

- Bài viết của Eric Beinhocker và Elizabeth Stephenson trên Harvard Business Publishing -

   

      Như Nguyệt dịch

NỘI DUNG KHÁC

Cần có một chiến lược toàn diện về tài nguyên và môi trường biển

6-8-2009

Việt Nam nằm phía tây Biển Đông, có bờ biển dài hơn 3.260 km, vùng biển rộng hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Theo một số tài liệu, Biển Đông được hình thành cách đây hơn 240 triệu năm từ một hồ nước hình tam giác ở phía Đông đường xích đạo với chiều dài mỗi cạnh khoảng vài trăm cây số.

Đổi mới cách làm chiến lược

26-8-2009

Hiện nay là thời điểm thích hợp để triển khai nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho đất nước thời kỳ 2011-2020, thời gian thực tế còn lại không nhiều lắm, nên cần khẩn trương xúc tiến các công việc chuẩn bị.

Cạnh tranh toàn cầu: Nhìn lại chuyện cây ôliu và chiếc Lexus

30-8-2009

Câu chuyện của ngày hôm nay là toàn dân tộc Việt thống nhất ý chí bước lên chiếc Lexus một cách dứt khoát và vạch ra chiến lược để giành thế làm chủ nó trong ngày mai. Nếu ai đó trong tư duy còn bám rễ cây Ô liu vì lo ngại chiếc Lexus sẽ đem nguy cơ đến cho mình thì sẽ bị quy luật đào thải.

Hướng tới một quốc gia kinh tế biển

2-9-2009

Để hướng tới một quốc gia kinh tế biển, điều cần thiết trước tiên đòi hỏi chúng ta cần có một tư duy đầy đủ về biển. Biển là một thực thể khách quan tồn tại ngoài ý chí của con người, biển là cái nôi và là yếu tố quyết định để tồn tại sự sống trên trái đất. Bởi vậy ngay từ vai trò tối hậu của nó cho thấy biển có tác dụng to lớn và toàn cục đến các hoạt động của con người, trong đó có lĩnh vực kinh tế biển

Mở bể than 210 tỷ tấn: Không đánh đổi lúa lấy than

10-9-2009

"Phải thử nghiệm. Nếu khai thác than mà có lợi và giữ được lúa thì chúng ta làm. Còn không, phải dừng lại. Chúng ta không bao giờ chấp nhận đánh đổi".

Dòng sông và phát triển lãnh thổ

13-9-2009

Nước là yếu tố cần thiết cho sự sống trên hành tinh của chúng ta, đến khi loài người thám hiểm các hành tinh khác, một trong những điều mà các nhà khoa học tìm kiếm đầu tiên là dấu vết của sự hiện diện của nước ở đó.

Sinh tồn trong suy thoái – bài học từ cháy rừng

21-9-2009

Hàng triệu năm qua, quy luật tự nhiên đã đưa các cánh rừng già trải qua vô vàn cơn hoả hoạn. Vài trăm năm trở lại đây, lực lượng cứu hoả ở các vạt rừng rậm rạp được huấn luyện để dập lửa càng nhanh càng tốt. Song có ý kiến quả quyết rằng, thành công ngày càng cao trong chữa cháy chưa hẳn đã là một tín hiệu đáng mừng.

Nâng cao tiềm lực quốc gia bằng điện hạt nhân

22-9-2009

Một khi có điện hạt nhân, tiềm lực khoa học và công nghệ của nước nhà sẽ tăng trưởng thêm nhiều bậc: An ninh năng lượng, môi trường bền vững, tiết kiệm tài nguyên cho con cháu cũng được bảo đảm... Vậy thì tại sao không?

Khí hóa than chưa hẳn đã an toàn!

22-9-2009

Khoảng không tạo nên từ quá trình khí hóa than dưới lòng đất UCG có thể khiến cho lớp đất trên bề mặt bị sụt, lún. Song hiện tượng này sẽ bớt lo ngại hơn nếu các vỉa than nằm sâu trong lòng đất.

Liên kết kinh tế vùng: từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam

27-9-2009

Nhìn từ bên trong, lẫn bên ngoài: bài toán “liên kết vùng” hiện nay không chỉ nhắm đến mục tiêu tạo lực, mà còn làm sao phân chia nguồn lực một cách hiệu năng. Bài toán này khó bởi những hạn chế trong việc quản lý kinh tế vùng hiện nay. Xu hướng liên kết có, nhưng một sự khởi đầu không phải đơn giản.

Năng lượng sinh học và cuộc cách mạng xanh của thế kỷ 21

11-10-2009

Một thách thức lớn cho nhân loại trong thế kỷ 21 là giảm phát thải khí nhà kính, yếu tố quyết định gây ra biến đổi khí hậu. Vấn đề chính được đặt ra là tìm được một  nguồn năng lượng sạch, rẻ, dồi dào để thay thế cho nguồn nhiên liệu hóa thạch, được coi là bẩn và đang được dự báo là sẽ cạn kiệt trong nay mai. Năng lượng sinh học hiện đang là một hướng đi mà nhiều quốc gia đã lựa chọn.

Quyền tiếp cận thông tin trong các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất

21-10-2009

Quyền tiếp cận thông tin là một quyền quan trọng của con người, được đề cập trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.