ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Tiếp cận kinh tế tuần hoàn cho lĩnh vực du lịch đô thị

Ngày đăng: 20 | 11 | 2023

Chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới như Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc và cả các quốc gia ASEAN bởi chính những lợi ích về kinh tế và môi trường. Thực hiện KTTH có thể xem là một trong những giải pháp đột phá để giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường trong bối cảnh phát triển công nghiệp, đô thị, thay đổi về tiêu dùng và lối sống. Du lịch nói chung, du lịch đô thị nói riêng có những đặc trưng riêng và chứa đựng tiềm năng áp dụng KTTH ở cả khía cạnh cung, cầu của hoạt động du lịch. Bằng việc nghiên cứu, phân tích đặc điểm của du lịch khu vực đô thị ở Việt Nam, nghiên cứu đã đề xuất được các nhóm giải pháp để tiếp cận áp dụng KTTH từ các khía cạnh cung và cầu của dịch vụ du lịch.

1. Đặt vấn đề

    Chuyển đổi sang KTTH đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới như Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc và cả các quốc gia ASEAN bởi chính những lợi ích về kinh tế và môi trường. Thực hiện KTTH đang được xem là một đòn bẩy quan trọng để đạt được các mục tiêu của chính sách như: tạo ra tăng trưởng kinh tế, việc làm và giảm tác động môi trường, thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững. Phát triển các mô hình KTTH để sử dụng hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất là một trong những nhiệm vụ nhằm thực hiện định hướng quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030. Thực hiện KTTH có thể xem là một trong những giải pháp đột phá để giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường trong bối cảnh phát triển công nghiệp, đô thị, thay đổi về tiêu dùng và lối sống. Đặc biệt, trong bối cảnh nguồn cung nguyên liệu, nhiên liệu đang bị đứt gãy do giãn cách xã hội, thì việc chuyển đổi sang KTTH còn được xem xét như là một trong những giải pháp nhằm phục hồi nền kinh tế hậu Covid-19.

    Quy định về KTTH đã được luật hóa trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 [1] và nhiều quy định pháp luật khác có vai trò thúc đẩy áp dụng KTTH. Việc sớm thể chế hoá quy định về KTTH trong chính sách, pháp luật đã nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, đồng thuận của giới khoa học và đã có những tín hiệu ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp đối với mô hình kinh tế nhiều tiềm năng này. Tuy nhiên, KTTH là vấn đề mới cả về lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn trong nước, để chuyển đổi thành công sang KTTH, Việt Nam vẫn còn phải giải quyết nhiều bài toán đặt ra từ hoàn thiện chính sách, phát triển công nghệ, thị trường… Nhìn chung, xét về bản chất KTTH là cách tiếp cận và là cơ hội cho tất cả các ngành, lĩnh vực, vùng, miền để vận dụng phù hợp với đặc trưng riêng, trong đó có thể kể đến là lĩnh vực du lịch đô thị. Việc áp dụng các nguyên tắc, biện pháp và chiến lược của KTTH vào phát triển du lịch ở khu vực đô thị được đánh giá là có tiềm năng cao và cần thiết. Bài viết hệ thống hóa một số luận cứ phát triển du lịch đô thị và gợi ý cách tiếp cận phát triển đô thị theo hướng áp dụng KTTH.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

    Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tập trung phân tích các đối tượng liên quan đến hoạt động du lịch đô thị ở Việt Nam.

    Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu áp dụng các phương pháp như nghiên cứu tại bàn; phân tích chính sách; phân tích dữ liệu để thu thập, phân tích, đánh giá những thông tin dữ liệu có liên quan đến các hoạt động du lịch nói chung, du lịch đô thị nói riêng và áp dụng KTTH trong hoạt động du lịch đô thị.

3. Kết quả và thảo luận

3.1. Tổng quan về du lịch đô thị

    Theo Luật Du lịch 2017 [2], du lịch được định nghĩa là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 1 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác. Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan đến du lịch. Chuỗi giá trị gia tăng của hoạt động du lịch từ vận tải, lưu trú, ăn uống, sản phẩm công nghiệp sang tạo, tài sản du lịch, giải trí và các dịch vụ hỗ trợ đều có mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên, môi trường (Hình 1).

20 11 23 1

Nguồn: UNEP [3]

Hình 1. Vị trí của tài nguyên, môi trường trong chuỗi giá trị gia tăng trong phát triển du lịch

    Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn. Xuất phát từ một số quan điểm về du lịch đô thị như: du lịch đô thị là một thuật ngữ miêu tả nhiều hoat động du lịch trong đó thành phổ là điểm đến chính là và địa điểm ưa thích. Tổ chức Du lịch Thế giới nhận định “Du lịch đô thị là các chuyến đi của khách du lịch tới các thành phố hoặc khu vực đông dân cư. Thời gian của chuyến đi thường khá ngắn (1 đến 3 ngày) vì thế có thể nói du lịch đô thị thường gắn liền với thị trường đi nghỉ ngắn ngày.

3.2. Áp dụng KTTH trong lĩnh vực du lịch đô thị

3.2.1. Tiếp cận từ khu vực cầu

    Cầu trong du lịch đô thị thường bao gồm các đặc điểm tâm lý và hành vi tiêu dùng, văn hóa, nhu cầu, sở thích, khả năng thu nhập, xu hướng đi du lịch, điểm đến, sản phẩm du lịch ưa thích… của các thị trường khách du lịch. Trong hoạt động du lịch, hành vi và yêu cầu từ chính khách du lịch đóng vai trò quan trọng để định hình ra các sản phẩm du lịch. Du lịch được hiểu là hành trình của khách du lịch từ nơi xuất phát đến điểm đến. Khách hàng tham gia vào hoạt động du lịch đô thị rất đa dạng, bao gồm: dân cư và khách tham quan địa phương, khách đi nghỉ, khách tham dự hội nghị, hội thảo, công nhân, cán bộ làm việc trong thành phố, có thể phân loại khách tham gia du lịch đô thị theo Hình 2.

20 11 23 2

Nguồn: Tác giả, 2023

Hình 2. Phân loại khách tham gia hoạt động du lịch đô thị

    Việc áp dụng các nguyên tắc, giải pháp của KTTH từ khía cạnh khách du lịch được xem là tiềm năng và cách thức để làm cho ngành du lịch được tuần hoàn hơn [4]. Khách du lịch có thể vận dụng các nguyên tắc để giảm thiểu chất thải thông qua nhiều cách khác nhau được trình bày tại Bảng 1.

Bảng 1. Tiếp cận áp dụng KTTH từ khía cạnh khách du lịch

20 11 23 3

Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2023

3.2.2. Tiếp cận từ khu vực cung các sản phẩm, dịch vụ du lịch

    Cung trong du lịch đô thị bao gồm các giá trị sản phẩm và dịch vụ hoàn chỉnh có thể tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đáp ứng cầu du lịch tại các đô thị, thành phố. Các thành phần của cung du lịch đô thị bao gồm: tài nguyên tự nhiên, các giá trị văn hóa, di sản đặc trưng, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, các phương tiện vận chuyển du lịch và nguồn nhân lực du lịch tại đô thị. Xuất phát từ sự đa dạng của các chủ thể khác nhau sẽ có cách thức vận dụng các chiến lược, giải pháp của KTTH khác nhau để thực hiện và đạt được các tiêu chí KTTH. Bảng 2 gợi ý các cách tiếp cận để thực hiện KTTH từ khu vực cung đối với hoạt động du lịch.

Bảng 2. Tiếp cận thực hiện KTTH từ khu vực cung đối với hoạt động du lịch

20 11 23 4

20 11 23 520 11 23 6Nguồn: Tác giả, 2022

3.3. Đề xuất tiếp cận hệ thống để phát triển các mô hình du lịch đô thị toàn diện

    Bên cạnh tiếp cận phát triển KTTH theo từng khía cạnh, chủ thể tham gia vào hoạt động du lịch như khách hàng, các tổ chức, cá nhân cung ứng hoạt động du lịch thì phát triển một mô hình du lịch đô thị toàn diện, bao trùm là hết sức cần thiết để duy trì tính hiệu quả và bền vững [4]. Chính vì vậy, vận dụng cách tiếp cận hệ thống trong phát triển du lịch đô thị theo hướng KTTH là hết sức cần thiết. Theo đó, các đô thị cần thúc đẩy thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, chính sách, hạ tầng và khoa học, công nghệ, thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0. KTTH trong du lịch cần được xem là một trong những trọng tâm để phát triển các đô thị bền vững, thông minh. Sau đây là một số đề xuất giải pháp để thúc đẩy áp dụng KTTH trong lĩnh vực du lịch đô thị ở Việt Nam, cụ thể: (1)Tổ chức đào tạo, truyền thông nâng cao nhận thức cho người dân địa phương, khách du lịch trong việc áp dụng KTTH nói riêng, trong lĩnh vực du lịch nói riêng; (2) Lồng ghép KTTH vào quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch ở các địa phương, ngành du lịch; (3) Phát triển đô thị thông minh kết hợp với du lịch và quản lý chất thải; (4) Xây dựng tài liệu hướng dẫn áp dụng KTTH trong lĩnh vực kinh doanh du lịch phù hợp với từng loại hình, đối tượng; (5) Phát triển bộ tiêu chí KTTH cho lĩnh vực du lịch đô thị; (6) Thúc đẩy liên kết giữa các cơ sở kinh doanh, áp dụng chuyển đổi số, liên kết đô thị và nông thôn trong thực hiện KTTH ở khu vực đô thị; (7) Khuyến khích các hiệp hội du lịch, các Viện nghiên cứu, trường đại học phát triển các bộ tiêu chí, dịch vụ tư vấn, thiết kế sinh thái, cung cấp các công nghệ, thiết bị để thúc đẩy KTTH trong lĩnh vực du lịch; (8) Thúc đẩy đổi mới, sang tạo, nhân rộng và phát triển các sang kiến kinh doanh bền vững, các mô hình kinh doanh tuần hoàn tại các khu vực đô thị; (9) Thực hiện phân loại, thu gom, tái chế và xử lý chất thải tại khu du lịch, khu đô thị theo quy định của pháp luật bảo vệ môi trường.

4. Kết luận

    Phát triển KTTH là giải pháp tất yếu để nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững; góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo; là hạt nhân để thực hiện chủ trương phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững trong bối cảnh của thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Thực hiện KTTH không phải là công việc của riêng một cá nhân, một tổ chức mà phải là sự tham gia và nỗ lực thay đổi của toàn hệ thống để cùng nhau một cách tiếp cận chung để vận hành; thiết lập một chuỗi giá trị gia tăng tuần hoàn với tầm nhìn chia sẻ. Thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là khu vực công, tư là động lực để thúc đẩy các mô hình KTTH. Tất cả các ngành, lĩnh vực, vùng miền cần được khuyến khích chuyển đổi sang KTTH. Kết quả nghiên cứu bài viết cho thấy, Việt Nam có thuận lợi lớn nhất là đã tạo dựng được nền tảng về định hướng, pháp luật, sự hưởng ứng tích cực của các Bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện KTTH. Việc cụ thể hóa sang kiến KTTH vào thực tiễn cuộc sống là hết sức quan trọng. Du lịch nói chung, du lịch đô thị nói riêng có những đặc trưng riêng và chứa đựng tiềm năng áp dụng KTTH ở cả khía cạnh cung, cầu của hoạt động du lịch. Trên cơ sở hiểu biết về du lịch đô thị và các nguyên tắc của KTTH, bài viết đã hệ thống và gợi ý các cách tiếp cận và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy áp dụng KTTH trong lĩnh vực du lịch đô thị ở Việt Nam.

Lời cảm ơn: Bài viết này được gợi ý thực hiện bởi đề tài khoa học và công nghệ cấp cơ sở “Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế nhằm đề xuất xây dựng kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam”, mã số CS.2023.19, do Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường chủ trì thực hiện.

 

Lại Văn Mạnh, Đỗ Thị Thanh Ngà, Nguyễn Thu Trang

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 10/2023)

Tài liệu tham khảo

1. Quốc hội, Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 17 tháng 11 năm 2020. 2020.

2. Quốc hội, Luật Du lịch số 09/2017/QH14. 2017.

3. UNEP, Ninth Environment for Europe Ministerial Conference: Substantive thematic document. 2022.

4. Sorin, F. and S. Einarsson, Circular Economy in Travel and Tourism: A Conceptual Framework for a Sustainable, Resilent and Future Proof Industry Transition. 2020.

 

NỘI DUNG KHÁC

Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội và giải pháp xử lý

27-11-2023

Hiện nay, tình trạng ô nhiễm không khí (ÔNKK) tại một số địa phương, đặc biệt là Hà Nội ngày càng diễn biến theo chiều hướng xấu, nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia về môi trường không khí (MTKK), ÔNKK tại Hà Nội cũng như các tỉnh miền Bắc chủ yếu là ô nhiễm bụi PM2,5 - “sát thủ vô hình”, bởi chưa thấy ngay tác hại và khó nhìn thấy về mặt trực quan. Việc đo lường chất lượng không khí phải dùng đến các công cụ phức tạp; hậu quả ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng phải rất lâu về sau mới thấy tác hại. Theo đánh giá, bụi PM2,5 - loại bụi được coi là tử thần trong không khí khi có thể đi sâu vào phổi, gây ra nhiều bệnh về hô hấp, tim mạch, đặc biệt là với đối tượng nhạy cảm như người già, trẻ em. Nguyên nhân gây ô nhiễm MTKK ở Hà Nội được xác định là do các nguồn thải từ hoạt động giao thông, xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các hoạt động dân sinh khác…

Một số vướng mắc trong thực hiện cơ chế chuyển nhượng quyền phát triển không gian ở Việt Nam

27-11-2023

Với sức ép từ quá trình đô thị hóa và thị trường hóa đất đai, nhiều mâu thuẫn đã phát sinh giữa quy hoạch quản lý và trật tự xây dựng; giữa công tác bảo tồn và phát triển; giữa quyền lợi của người sử dụng đất và quyền lực của tư bản thị trường. Nguyên nhân quan trọng được cho là thiếu sự đồng thuận từ các thành phần xã hội (chính quyền, doanh nghiệp và người dân) trong phát triển đô thị, từ đó khó có thể huy động tối đa nguồn lực (đất đai và tài chính) phục vụ phát triển đô thị. Cơ chế chuyển nhượng quyền phát triển được xem là một giải pháp hiệu quả nhằm khắc phục những vấn đề trên. Vì vậy, bài viết làm rõ thế nào là cơ chế chuyển nhượng quyền phát triển không gian và những vướng mắc khi áp dụng ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Xây dựng danh mục phân loại xanh cho Việt Nam phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế

27-11-2023

Trong khoảng 20 năm gần đây, thúc đẩy thị trường tài chính xanh đang trở thành một xu hướng nổi bật và được áp dụng rộng rãi và trở thành xu hướng phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế. Trên thế giới, các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… đã quan tâm phát triển các nguồn tín dụng xanh để cho các dự án “xanh” vay, vì hoạt động tín dụng này sẽ đạt được mục tiêu kép là bảo vệ môi trường (BVMT) và giảm rủi ro khi cho vay (do dự án ít rủi do về môi trường).

Ô nhiễm vi nhựa trong không khí: Hiện trạng và một số đề xuất giải pháp

29-11-2023

 Mục đích của nghiên cứu nhằm cung cấp các thông tin tổng quan về ô nhiễm vi nhựa trong môi trường không khí và các rủi ro sức khỏe. Các phương pháp được sử dụng bao gồm tổng hợp, phân tích, đánh giá tổng quan tài liệu từ những nghiên cứu mới nhất dựa trên các cơ sở dữ liệu quốc tế Web of Science và Scopus. Kết quả cho thấy ô nhiễm vi nhựa trong không khí là vấn đề quan trọng đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Nhựa có thể tồn tại dưới dạng hạt kích thước nhỏ (< 5 mm) trong không khí và phân tán đến các khu vực xa xôi thông qua gió và quá trình khí quyển khác. Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người. Nguyên nhân sâu xa nhiễm bẩn vi nhựa do sự sản xuất và tiêu thụ nhựa lớn, xả thải chất thải nhựa không kiểm soát, các quá trình vận chuyển, hiện tượng mưa nhựa và các yếu tố thời tiết khác. Qua đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề ô nhiễm vi nhựa trong không khí, bao gồm áp dụng các giải pháp chính sách - quản lý, kỹ thuật - tài chính, giáo dục - truyền thông như nâng cao ý thức cộng đồng, giảm sử dụng nhựa, tái chế và xử lý chất thải nhựa, thúc đẩy và sử dụng các sản phẩm thân thiện với thiên nhiên, môi trường.

Đẩy mạnh phát triển sản xuất xanh nhằm phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu

29-11-2023

 Đẩy mạnh sản xuất xanh là xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế, trong khi vẫn duy trì sự bền vững về môi trường. Nó có vai trò rất quan trọng và có tính quyết định để bảo vệ môi trường (BVMT), bảo đảm ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển bền vững (PTBV).

Phát triển hài hoà với thiên nhiên, hướng tới phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu

29-11-2023

Phát triển bền vững (PTBV), về mặt lý thuyết, được định nghĩa “là sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên” (UN, 1992); “là sự phát triển hài hòa giữa ba trụ cột kinh tế - xã hội - môi trường/sinh thái” (UN, 2002). Tuy nhiên, trong thực tế, các quốc gia, trong đó có Việt Nam, vẫn tập trung vào phát triển kinh tế, còn khía cạnh xã hội và sinh thái ít được chú ý hơn.

Tài nguyên nước thải và lợi ích khi tái sử dụng nước thải

25-12-2023

 Bài viết nêu lên lợi ích của việc tái sử dụng nước thải, bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và đề xuất giải pháp để tăng cường tái chế, tái sử dụng nước thải trên toàn cầu trong thời gian tới.

Phát triển các mô hình kinh tế xanh, ít chất thải, các-bon thấp và tuần hoàn để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững

26-12-2023

Phát triển các mô hình kinh tế xanh, ít chất thải, các-bon thấp và tuần hoàn đang nhận được sự hưởng ứng của nhiều quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp trên thế giới. Trong đó, kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang được xem là xu thế tất yếu, được các nước coi là cuộc cách mạng công nghiệp xanh của thế kỷ 21. Phát triển các-bon thấp, hướng tới giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 đã trở thành xu thế phát triển tất yếu của nhân loại. Tại Hội nghị COP26, lần đầu tiên, thế giới đưa ra lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ. Để thực hiện lộ trình này, đòi hỏi tất cả các quốc gia phải nhanh chóng chuyển đổi sang phát triển phát thải thấp. Ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) đã chuyển sang một giai đoạn mới, đòi hỏi Việt Nam phải tham gia sâu và thực chất vào nỗ lực chung của toàn cầu.

Kết quả 10 năm thực hiện nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới

27-12-2023

    Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương được ban hành ngày 3/6/2013 tại Hội nghị lần thứ 7 khóa XI trong bối cảnh đất nước ta đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nghị quyết đã đề ra những quyết sách lớn của Đảng trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ở nước ta. Sau 10 năm thực hiện, công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả khả quan. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế, tồn tại, cần phải có những chủ trương, giải pháp mới phù hợp với yêu cầu phát triển của giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và những vấn đề đặt ra

27-12-2023

  Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Đây là những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm tổ chức thực hiện tốt công tác này, nhất là kể từ khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Thực hiện quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản đảm bảo phát triển bền vững

27-12-2023

 Triển khai Luật Quy hoạch và Luật Khoáng sản, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Việc tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch này sẽ góp phần quan trọng phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế khác có sử dụng khoáng sản làm nguyên liệu, tạo công ăn việc làm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay. Quy hoạch định hướng tổng thể về mục tiêu phát triển dài hạn, cơ bản về quản lý khoáng sản có trữ lượng lớn, chiến lược, quan trọng gắn với việc huy động các nguồn lực và giải pháp căn cơ theo lộ trình phát triển, đảm bảo phát triển bền vững, hiệu quả lợi ích kinh tế -xã hội và bảo vệ môi trường, gắn với đảm bảo an ninh, quốc phòng, hài hòa giữa lợi ích quốc gia, địa phương và doanh nghiệp.

Xây dựng đề án phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam

27-12-2023

Thị trường các-bon được coi là một trong những công cụ quan trọng trong việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính với chi phí của doanh nghiệp và xã hội thấp, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và góp phần đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050” của Việt Nam. Đề án phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam được xây dựng nhằm giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương gắn với tiến độ, thời hạn cụ thể triển khai quy định pháp luật tổ chức và phát triển thị trường các-bon trong nước.