ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Bài học kinh nghiệm tài trợ tài chính khí hậu từ một số quốc gia trên thế giới

Ngày đăng: 01 | 07 | 2024

Bài viết đúc rút kinh nghiệm tài trợ tài chính khí hậu ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó đưa ra một số định hướng giải pháp góp phần thúc đẩy hiệu quả tài trợ tài chính khí hậu trong thời gian tới. Để huy động nguồn lực này, các quốc gia trên thế giới có xu hướng triển khai đa dạng các chính sách tài chính khí hậu. Hiệu quả triển khai và áp dụng các chính sách này rất khác nhau và tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.

I. Đặt vấn đề

Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những tác động tiêu cực tới hầu hết các quốc gia trên thế giới và cần phải có nguồn lực tài chính để ứng phó. Việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính ứng phó với biến đổi khí hậu đang là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với mỗi quốc gia.

Thời gian qua, tình trạng khí hậu nóng lên toàn cầu gia tăng, mực nước biển dâng đi kèm với các hiện tượng khí hậu cực đoan diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng liên quan đến kinh tế, xã hội, môi trường; đe dọa tính mạng và sinh kế của hàng triệu đến hàng tỷ người trên toàn cầu. Rủi ro khí hậu mang tính hệ thống và phi tuyến tính, nếu không được giải quyết kịp thời có thể dẫn đến các điểm bùng phát trong hệ sinh thái (Battiston và cộng sự, 2017; Dafermos, 2021; Lenton và cộng sự, 2019), tạo ra các cuộc khủng hoảng kinh tế và sinh thái xã hội kéo dài cũng như các hiệu ứng trễ ngăn chặn các tác động môi trường. Masud và cộng sự (2023) đã chứng minh được rằng việc tài trợ nhiều hơn cho khí hậu sẽ là cơ chế hiệu quả nhất để giảm thiểu rủi ro khí hậu.

Một số quốc gia ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng đã đưa ra một số quyết sách quan trọng như Chính sách kinh tế Xanh của Hàn Quốc, Đạo luật Việc làm Xanh của Philippine, Gói Năng lượng sạch tương lai của Australia…, đồng thời cung cấp hỗ trợ tài chính và các ưu đãi cho các tổ chức tham gia vào đổi mới bền vững. Tài chính khí hậu được cung cấp và huy động nhằm mục tiêu (i) giảm nhẹ rủi ro, (ii) thích ứng rủi ro, (iii) hỗ trợ xuyên suốt quá trình từ đó góp phần tăng cường khả năng phục hồi khí hậu ở các quốc gia.

Trong những năm qua, các quốc gia trên thế giới đã đặc biệt quan tâm đến tài chính khí hậu. Chỉ tính riêng năm 2021, các nước phát triển đã cung cấp và huy động cho các nước đang phát triển lên tới 89.6 tỷ USD với 4 thành phần hỗ trợ chủ yếu gồm tài chính công (hỗ trợ song phương, đa phương), tín dụng xuất khẩu liên quan khí hậu, tài chính khí hậu tư nhân (OECD, 2023). Với vị thế đặc biệt quan trọng, tài chính đóng vai trò then chốt trong việc tài trợ và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, đổi mới công nghệ xanh và các chiến lược kinh doanh, ứng dụng các phương pháp sản xuất, kinh doanh bền vững trên dựa trên cơ sở xem xét tác động của rủi ro khí hậu. Do đó, đòi hỏi cần có sự thay đổi trong phân bổ và quản lý các nguồn lực tài chính, nhằm giảm thiểu và thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu.

2. Nội dung

2.1. Cơ sở lý luận về tài chính khí hậu

2.1.1. Khái niệm

           Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCC)[1] chỉ ra “Tài chính khí hậu đề cập đến việc sử dụng các nguồn lực tài chính của địa phương, quốc gia, quốc tế dựa trên cơ sở huy động từ nguồn tài chính công, tư nhân và các nguồn tài chính thay thế nhằm hỗ trợ các hành động giảm thiểu và thích ứng nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu”. Trong khi, quan điểm của Stadelmann và cộng sự (2023) cho rằng “Tài chính khí hậu là dòng tài chính do chính phủ các nước công nghiệp hóa và tổ chức tư nhân huy động nhằm hỗ trợ giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu ở các nước đang phát triển”. Dường như cho thấy có sự khác nhau về các kênh huy động tài chính nhằm ngăn chặn và ứng phó với các hậu quả biến đổi khí hậu giữa các quốc gia dựa trên nền tảng đạt được sự cân bằng giữa thích ứng và giảm nhẹ, tài chính khí hậu là nguồn lực quan trọng để giúp các quốc gia chuyển đổi sang hướng phát triển bền vững, ít carbon.

          Nhìn chung, tài chính khí hậu đề cập đến việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính để hỗ trợ các chương trình dự án, sáng kiến ​​liên quan đến khí hậu, nhằm ứng phó và đối phó với biến đổi khí hậu gắn với phát triển bền vững nền kinh tế và bảo vệ môi trường.

2.1.2. Tầm quan trọng của tài chính khí hậu

          Thứ nhất, tài chính khí hậu góp phần giảm thiểu hiệu ứng khí nhà kính.

          Hiệu ứng khí nhà kính tăng làm gia tăng nhiệt độ toàn cầu, đang trở thành mối đe dọa lớn đối với môi trường và sự sống còn của con người. Tính đến tháng 10/2023, nhiệt độ trung bình toàn cầu gần bề mặt cao hơn khoảng 1,40 ± 0,12°C so với mức trung bình giai đoạn 1850 - 1900 (WMO, 2023). Việc gia tăng phát thải carbon dioxide và metan do đốt nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu hoặc khí đốt đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như mực nước biển dâng toàn cầu, ngập lụt xảy ra ở các khu vực ven biển, sa mạc hóa các khu vực màu mỡ, thiếu hụt lương thực, bệnh tật gia tăng và lây lan diện rộng, thay đổi chu kỳ sinh trưởng của các giống cây trồng, vật nuôi,... Chỉ tính riêng ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, hàng năm bị thiệt hại và mất mát do hạn hán gây ra liên quan đến ngành nông nghiệp khoảng 82% (WMO, 2023). Do đó, yêu cầu cắt giảm lượng khí thải và thích ứng với biến đổi khí hậu đang là bài toán cấp bách đặt ra cho Chính phủ mỗi quốc gia trong bối cảnh khí hậu nóng lên toàn cầu. Điều này đòi hỏi phải huy động được nguồn lực tài chính đáng kể để đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng, tiếp cận khai thác nguồn năng lượng mới, hỗ trợ khắc phục ở những khu vực bị tổn thương do ảnh hưởng của rủi ro khí hậu… Thông qua việc tài trợ cho việc nghiên cứu, thử nghiệm, khai thác các nguồn năng lượng tái tạo, sử dụng nhiên liệu có hàm lượng carbon thấp, đã góp phần giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, giảm phát thải khí nhà kính.

2.2. Tài trợ tài chính khí hậu ở một số quốc gia trên thế giới

          Trong thời gian qua, trên thế giới đã có một số chương trình tài trợ tài chính khí hậu thành công, như sáng kiến năng lượng tái tạo tại Maldives, Uzbekistan; sáng kiến xây dựng khả năng phục hồi ở Sierra Leone. Một số dự án đã được đầu tư, triển khai nhằm hạn chế phát thải khí nhà kính, tăng khả năng phục hồi trước biến đổi khí hậu như xây dựng dự án nhà máy điện sử dụng năng lượng tái tạo, xe buýt điện; xây dựng cơ sở hạ tầng có thể chịu được bão và lũ lụt, bảo tồn rừng; các dự án thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về biến đổi khí hậu[2]…

            Chính phủ Vương quốc Anh đã ban hành một số chính sách chống biến đổi khí hậu như đầu tư vào năng lượng tái tạo (phát điện gió ngoài khơi), cơ chế định giá carbon để giảm lượng khí thải từ các ngành công nghiệp và năng lượng, các mục tiêu giảm phát thải đầy tham vọng và các biện pháp thích ứng (phát triển quy trình đánh giá rủi ro biến đổi khí hậu) (Scott, 2023). Đặc biệt với việc ban hành Đạo luật Biến đổi khí hậu 2008 (Sửa đổi Mục tiêu năm 2050) được xem là cam kết hành động khí hậu lâu dài tại vương quốc này. Cơ quan môi trường Anh đã hỗ trợ Chính phủ đưa tài chính thích ứng và quy định Net Zero vào Chiến lược Tài chính Xanh; ban hành Chương trình đổi mới khả năng phục hồi lũ lụt và ven biển trị giá 150 triệu bảng Anh; đầu tư 1,747 triệu bảng Anh cho môi trường trong năm 2022 - 2023 (Environment Agency, 2023).

          Tại Nhật Bản, ngành ngân hàng đang hợp tác cùng nhau đạt được mục tiêu khử carbon, họ đã thành lập “Sáng kiến Hiệp hội ngân hàng Nhật Bản nhằm đạt được mức trung hòa Carbon” và xây dựng quy tắc liên quan đến quản lý rủi ro biến đổi khí hậu. Một số ngân hàng lớn tại quốc gia này đã có cam kết đánh giá và công bố lượng phát thải khí nhà kính liên quan đến danh mục đầu tư và cho vay trong thời gian ngắn hạn. Ngành Ngân hàng Nhật Bản đang nỗ lực xây dựng nền tảng kinh doanh có khả năng chống chọi với biến đổi khí hậu và đảm bảo khả năng quản lý bền vững thông qua cơ chế chủ động hỗ trợ các công ty khách hàng với tiêu chí cơ hội cho khách hàng, đây cũng là cơ hội cho các tổ chức tài chính. Các tổ chức tài chính xác định chú trọng tìm kiếm khách hàng tiềm năng để cấp tín dụng liên quan đến biến đổi khí hậu, và là cơ hội để nâng cao thu nhập của họ. Đồng thời, các tổ chức tài chính này cũng xác định rủi ro đối với công ty khách hàng cũng là rủi ro của họ. Một số rủi ro có thể kể đến như rủi ro liên quan những thay đổi về quy định, công nghệ, môi trường thị trường… gắn liền với quá trình chuyển đổi sang trung hòa carbon (rủi ro chuyển đổi) và ảnh hưởng đến doanh nghiệp do các yếu tố như thiên tai ngày càng gia tăng, sự thay đổi nhiệt độ và lượng mưa (rủi ro vật chất). Các tổ chức tài chính tại Nhật Bản song song với hỗ trợ truyền thống, cũng khuyến khích các khách hàng tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu, từ đó củng cố nền tảng kinh doanh của các công ty khách hàng và nền tảng kinh tế của khu vực. Thông qua cơ chế khuyến khích khách hàng này đã giúp ngăn ngừa rủi ro chuyển đổi, rủi ro vật chất của khách hàng khi biến đổi khí hậu xảy ra, do đó giảm thiểu rủi ro quản lý và những thiệt hại đến giá trị kinh doanh của chính đối tác và các ngân hàng cho vay. Bên cạnh đó, sự phát triển tài chính khí hậu ở Nhật Bản có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau như cơ quan giám sát tài chính, ngân hàng trung ương, các tổ chức quốc tế liên quan đến biến đổi khí hậu như IPCC, các tổ chức tư vấn và các công ty kiểm toán, đã góp phần phát huy hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.

2.3. Bài học kinh nghiệm từ việc tài trợ tài chính khí hậu ở một số quốc gia trên thế giới

          Đa dạng hóa kênh phân bổ Quỹ biến đổi khí hậu để tài trợ cho biến đổi khí hậu: chẳng hạn như huy động nguồn tài chính từ các kênh khác nhau như Kênh phân bổ Quỹ biến biến đổi đa phương từ các danh mục khác nhau như Quỹ thích ứng, Quỹ Khí hậu xanh, Quỹ biến đổi khí hậu đặc biệt… Kêu gọi hỗ trợ từ các tổ chức tài chính đa phương như Ngân hàng Thế giới, Công ty Tài chính Quốc tế, Ngân hàng Phát triển các khu vực, Các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc… Việc hạn chế về khả năng huy động nguồn lực tài chính tài trợ cho biến đổi khí hậu là những rào cản ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thúc đẩy sự phát triển tài chính khí hậu.

          Thêm vào đó, sự thiếu minh bạch về thể chế trong việc phát hành các công cụ huy động tài chính là rào cản đối với một quốc gia trong việc tiếp cận thị trường trái phiếu khí hậu quốc tế. Do đó, các quốc gia cần minh bạch trong việc sử dụng các nguồn tài chính khí hậu, đây là cơ sở để kêu gọi sự chung tay hỗ trợ các chương trình chống biến đổi khí hậu. Với việc ban hành hướng dẫn về công bố thông tin tài chính liên quan đến khí hậu ở Nhật Bản, áp dụng Nguyên tắc Trái phiếu Xanh (GBP) áp dụng để phát hành trái phiếu được xem là những nỗ lực quan trọng chống biến đổi khí hậu.

          Việc tổ chức lại chuỗi cung ứng, cập nhật công nghệ và thiết bị, đánh giá lại hệ thống sản xuất, được xem là giải pháp góp phần cải thiện chuỗi cung ứng. Mỗi quốc gia cần nâng cao kỹ năng ứng phó biến đổi khí hậu của mỗi công ty, điều này có thể góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn bộ chuỗi cung ứng và toàn ngành. Thông qua cơ chế phân bổ tài chính bền vững, với chính sách cho vay xanh, thúc đẩy đầu tư xanh từ phía các tổ chức tín dụng đã góp phần nâng cao nhận thức về ứng phó biến đổi khí hậu, đây cũng được xem những yếu tố quan trọng và đang phổ biến trên thế giới, có ảnh hưởng đến tính bền vững của quản lý doanh nghiệp.

2.4. Một số định hướng giải pháp góp phần thúc đẩy hiệu quả tài trợ tài chính khí hậu trong thời gian tới

          Thứ nhất, đổi mới cơ chế tài chính, mở rộng quy mô tài chính nhằm đạt được cam kết về khí hậu. Mỗi quốc gia có thể phát huy nội lực và ngoại lực trong huy động tài chính tài trợ khí hậu. Các nguồn lực bên ngoài có thể kể đến như huy động tài chính từ các quỹ khí hậu đa phương (như Quỹ Khí hậu xanh - GCF, Quỹ môi trường Toàn cầu - GEF, Quỹ Thích ứng - AF…), các tổ chức tài chính phát triển, các ngân hàng phát triển khu vực. Bên cạnh đó, huy động trái phiếu khí hậu cũng được xem là kênh huy động nợ ổn định trong và ngoài nước, giúp đảm bảo sự phù hợp với mục tiêu về khí hậu.

          Thứ hai, tận dụng chức năng thị trường bằng cách mở rộng công bố thông tin. Cung cấp các khoản đầu tư và cho vay liên quan đến khí hậu cho các nhà đầu tư thông qua việc công bố thông tin. Để có thể tiếp cận với nguồn tài chính khí hậu, các tổ chức tín dụng ở các quốc gia cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tiêu chuẩn dự án đầu tư gắn liền với chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, trong đó đặc biệt là vấn đề chất lượng thông tin công bố liên quan đến rủi ro và dự án liên quan biến đổi khí hậu, quy trình sản xuất, cũng như sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường. Cần xây dựng bộ tiêu chí lượng hóa được các rủi ro khí hậu để phê duyệt các dự án đầu tư. Về phía các doanh nghiệp, cần chủ động lập kế hoạch và nỗ lực hướng tới quá trình khử carbon trong quá trình sản xuất, kinh doanh. 

          Thứ ba, nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển công nghệ có khả năng phục hồi trước sự gia tăng của thiên tai. Trước sự biến đổi khó lường của thiên tai, cần thiết phải xây dựng cơ sở hạ tầng. Các quốc gia rất cần phải đầu tư thêm vào công tác giảm nhẹ rủi ro thiên tai, thích nghi với những thay đổi khí hậu để hạn chế những tác động tiêu cực. Nguồn tài chính chủ yếu cho giảm nhẹ rủi ro thiên tai là những khoản đầu tư của chính quyền trung ương, tỉnh và địa phương trong các dịch vụ công. Nguồn tài chính có khả năng phục hồi bảo đảm có thể thông qua các nguồn lực của Chính phủ như: đưa vào kế hoạch phát triển quốc gia và lập ra các kế hoạch giảm thiểu rủi ro thiên tai dài hạn, cần sự phối hợp giữa các ngành, một cách linh hoạt trong phân bổ ngân sách. Các cơ chế tài chính giảm nhẹ thiên tai độc lập cần được sử dụng đặc biệt cho các hoạt động giảm thiểu, phòng ngừa và chuẩn bị, một phần của quỹ được giành cho quỹ phản ứng nhanh, quỹ dự phòng cho các chương trình cứu trợ và phục hồi. Chia sẻ chi phí với các chính quyền địa phương và cộng đồng. Khi quốc gia phát triển và khí hậu biến đổi, nhu cầu đầu tư vào giảm thiểu rủi ro thiên tai tăng lên, góp phần tăng trưởng kinh tế trong  thời điểm bình thường, cũng như giảm tổn thất kinh tế khi thảm họa xảy ra. Bên cạnh đó, việc huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân nhằm mở rộng các nguồn tài chính hiện tại phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng là thiết yếu. Cần xây dựng khuôn khổ thể chế gắn kết các hình thức nhượng quyền hoặc cho phép tư nhân tham gia kinh doanh cơ sở hạ tầng để tạo nguồn thu tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng mới.

3. Kết luận

Để có thể đáp ứng nhu cầu về tài chính khí hậu trong thời gian tới, bên cạnh việc tập trung huy động và đầu tư có hiệu quả các nguồn lực hiện có, cần có những kinh nghiệm triển khai từ các quốc gia trên thế giới để có thể xây dựng, hoàn thiện chính sách thực thi tài chính khí hậu phù hợp. Tài chính khí hậu là chìa khóa quan trọng, là đòn bẩy tích cực để thực hiện các cam kết khí hậu mà các nước đã đưa ra. Trong bối cảnh thế giới đang cần khẩn thiết hành động trước thời điểm không thể quay trở lại về khí hậu này, tài chính khí hậu lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết và cần phải thu hút nhiều nguồn đầu tư hơn nữa, cũng như các định hướng giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển tài chính khí hậu.

Lê Thùy Dung, Hoàng Thị Lộc, Bùi Đình Thắng

Trường Đại học KInh tế Nghệ An

(Theo tapchicongthuong.vn)

Tài liệu trích dẫn

[1] UNFCCC. Introduction to Climate Finance. Available at: https://unfccc.int/topics/introduction-to-climate-finance

[2] United Nations Development Programme. Available at: https://climatepromise.undp.org/

 Tài liệu tham khảo

1. Agency E. (2023). Annual report and accounts 2022-23. UK: Environment Agency.

2. Battiston S., Mandel A., Monasterolo I., Schütze F., & Visentin G. (2017). A climate stress-test of the financial system. Nature Climate Change, 7 (4), 283–288.

3. Masud M., Sahara J., & Kabir M. (2023). A Relationship between Climate Finance and Climate Risk: Evidence from the South Asian Region. Climate, 11, 119.

4. Scott C. (2023). Climate Finance and its Role in Climate Policy. Journal of Climate Policy, 2(1), 54-66.

5. Stadelmann M., Michaelowa A., & Roberts T. (2013). Difficulties in accounting for private finance in international climate policy. Climate Policy, 13(6), 718-737.

6. UNEP. (2023). Adaptation Gap Report 2023.

7. WMO. (2023). Provisional State of the Global Climate 2023.

8. Dafermos, M. (2021). The metaphysics of psychology and a dialectical perspective. Theory & Psychology, 31(3), 355–374

9. Timothy M. Lenton (2021). Tipping points in the climate system. Weather, 76 (10), 325-326.

NỘI DUNG KHÁC

Đánh giá định kỳ 10 năm Khu Dự trữ sinh quyển thế giới - Thực hiện cam kết quốc tế và pháp luật về quản lý di sản thiên nhiên tại Việt Nam

2-7-2024

 Trong thời gian qua, Việt Nam đã có đóng góp tích cực trong việc phát triển mạng lưới các khu DTSQ trên toàn cầu với 11 khu DTSQTG được UNESCO công nhận, gồm có: Rừng ngập mặn Cần Giờ (2000); Đồng Nai (2001/2011); Châu thổ sông Hồng (2004); Quần đảo Cát Bà (2004); Kiên Giang (2006); Miền Tây Nghệ An (2007); Cù Lao Chàm - Hội An (2009); Mũi Cà Mau (2009); Langbiang (2015); Núi Chúa (2021); Cao nguyên Kon Hà Nừng (2021).

Chuyển đổi logistics xanh trong thương mại điện tử là yêu cầu cần thiết

3-7-2024

Trong những năm qua, tốc độ phát triển Thương mại điện tử tại Việt Nam luôn nằm trong top đầu của các nước trong khu vực và cả trên thế giới, với những đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng này cũng kéo theo những hệ luỵ xấu đến môi trường từ dịch vụ logistics như quy trình đóng gói sử dụng nhiều nhựa, nilon, rác thải, rồi quy giao nhận hàng hoá gây phát thải CO2. Logistics trong TMĐT được chia thành nhiều chặng như chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối. Càng có nhiều lớp vận chuyển thì càng tạo áp lực cho môi trường.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

4-7-2024

 Ngày 4/6/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 81-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT.

Sáng kiến biến rác thành năng lượng đang thay đổi cách xử lý chất thải thế nào?

5-7-2024

Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và thay đổi cuộc sống nhanh chóng đã dẫn đến việc phát sinh một lượng lớn chất thải tại các khu đô thị và khu công nghiệp trên thế giới.

Tái sử dụng chất thải trong khu công nghiệp sinh thái, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn

8-7-2024

Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) là một mô hình của nền kinh tế tuần hoàn, hướng đến một nền kinh tế khép kín. Theo đó, rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp (DN), góp phần giảm thiểu chất thải ra môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế cho các hoạt động sản xuất trong khu công nghiệp (KCN).

Kinh tế tuần hoàn trong xu thế phát triển bền vững đô thị

9-7-2024

Đô thị đóng vai trò quan trọng trong thực thi chính sách phát triển bền vững (PTBV) và xây dựng lộ trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH). Với tình trạng bùng nổ dân số như hiện nay, các thành phố (TP) sẽ ngày càng đối mặt với nhiều thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường. Hơn nữa, các đô thị đóng góp chính vào biến đổi khí hậu (BĐKH) và chịu trách nhiệm cho 60 - 80% lượng phát thải khí nhà kính (KNK), chiếm 75% lượng tiêu thụ tài nguyên, phát sinh 50% chất thải rắn toàn cầu (EMF, 2017). Nghị quyết số 06-NQ/TW về quy hoạch, xây dựng, quản lý và PTBV đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Bộ Chính trị ban hành ngày 24/1/2022 cho thấy, cần phải có những giải pháp mới, đột phá gắn với sự PTBV của đô thị Việt Nam. Bài báo chia sẻ cách tiếp cận từ KTTH với những mô hình áp dụng cho các ngành, lĩnh vực quan trọng trong đô thị trên thế giới và một số lĩnh vực tiềm năng ở Việt Nam, bao gồm: Xử lý rác thải đô thị; Phát triển năng lượng tái tạo (NLTT); Nông nghiệp; Giao thông đô thị; Công tác quản trị và đổi mới sáng tạo. Cuối cùng, bài báo trình bày một số khó khăn và thách thức trong quá trình triển khai mô hình KTTH, phục vụ phát triển đô thị ở Việt Nam.

Đo lường đóng góp giá trị tăng thêm của kinh tế biển vào tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam

15-7-2024

  Biển và các ngành kinh tế biển nói chung đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia thông qua việc cung cấp nguồn thực phẩm, việc làm, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cũng như thúc đẩy thương mại thông qua đường biển.

Hiện trạng và giải pháp tăng cường quản lý đất ngập nước gắn với phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển đồng bằng sông Hồng

18-7-2024

    Đất ngập nước (ĐNN) là hệ sinh thái rất đa dạng phong phú, có nhiều giá trị về kinh tế - văn hóa - xã hội, là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển KT-XH. Trong thời gian vừa qua, các hoạt động phát triển KT-XH đã và đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc quản lý, sử dụng, bảo tồn ĐNN tại nhiều địa phương, trong đó có vùng ven biển đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Bằng phương pháp tổng quan, phân tích tài liệu, khảo sát một số hệ sinh thái ĐNN ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH, bài viết phân tích hiện trạng sử dụng ĐNN gắn với phát triển KT-XH vùng ven biển ĐBSH, trên cơ sở đó đã đề xuất một số giải pháp quản lý ĐNN gắn với phát triển KT-XH vùng ven biển ĐBSH.

Kinh nghiệm xây dựng thể chế và vận hành thiết chế quản lý nhà nước về môi trường biển của một số nước khu vực biển Đông Á - Bài học cho Việt Nam

18-7-2024

​Biển Đông Á là vùng biển được bao bọc bởi các quốc gia và vùng lãnh thổ có biển ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Xét trên tính chất liên thông của biển và tính chất lan truyền ô nhiễm trên biển, bài viết nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng thể chế và vận hành thiết chế quản lý nhà nước (QLNN) về môi trường biển ở một số quốc gia khu vực biển Đông Á nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm quản lý để có những khuyến nghị áp dụng cho QLNN về môi trường biển ở Việt Nam.

Cần có một hiệp ước toàn cầu công bằng và mạnh mẽ trong chuỗi giá trị nhựa

18-7-2024

Hiện nay, ô nhiễm nhựa là một trong những vấn đề xuyên biên giới, ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia với mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng. Rác thải nhựa đã được tìm thấy ở mọi nơi trên thế giới, từ vùng biển sâu nhất đến những ngọn núi xa xôi nhất, ước tính có khoảng 9 - 14 triệu tấn rác thải nhựa đổ ra đại dương mỗi năm, gây tác hại lớn đến động vật hoang dã, hệ sinh thái, đồng thời làm gián đoạn sinh kế của hàng triệu người, gây ra rủi ro đáng kể cho sức khỏe con người và nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, việc sản xuất nhựa cũng góp phần tạo ra một lượng lớn khí nhà kính. Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc ước tính, nếu con người tiếp tục kinh doanh như hiện nay thì đến năm 2040, sản xuất nhựa có thể chiếm 19% tổng lượng khí thải nhà kính trên thế giới. Đây là vấn đề toàn cầu cần có sự cam kết mạnh mẽ và sự phối hợp chung tay của các quốc gia trên thế giới mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được.

Một số kinh nghiệm về sáng kiến thành phố phát thải các-bon thấp trên thế giới

18-7-2024

 Biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng trở nên khắc nghiệt và là mối quan tâm chung của nhân loại. Vì vậy, năm 2015 được coi là năm bản lề của Liên Hợp Quốc về việc thông qua Hiệp định Paris về BĐKH. Kể từ đó, ngày càng có nhiều quốc gia cam kết chuyển đổi sang nền kinh tế ít các-bon. Tính đến năm 2022, đã có khoảng hơn 1.000 đô thị trên toàn cầu đã thực hiện các bước chuyển đổi để ứng phó với BĐKH, trong đó có mô hình đô thị các-bon thấp. Bài viết chia sẻ kinh nghiệm của các thành phố (TP) và trung tâm đô thị trên thế giới đang nỗ lực giảm lượng khí thải các-bon thông qua bốn hạng mục: Quản trị và Chính sách; Sự tham gia của các bên liên quan; Giải pháp sáng tạo và dựa trên thiên nhiên; Kinh tế tuần hoàn. 

Thỏa thuận Xanh châu Âu và một số giải pháp thích ứng cho Việt Nam

18-7-2024

 Thỏa thuận Xanh châu Âu (EGD) là Chương trình tổng thể và dài hạn của Liên minh châu Âu (EU), nhằm ứng phó với các vấn đề khẩn cấp về khí hậu toàn cầu đến năm 2050. Được thông qua ngày 15/1/2020, EGD định hình chiến lược của EU để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (trung hòa về phát thải) và trở thành khu vực kinh tế sử dụng ít nhất các nguồn lực tự nhiên vào năm 2050. EGD cũng nhằm mục đích bảo vệ, bảo tồn và nâng cao nguồn vốn tự nhiên của EU, đồng thời bảo vệ sức khỏe, hạnh phúc của công dân trước những rủi ro, tác động liên quan đến môi trường.