TIN TỨC-SỰ KIỆN

Mức đóng góp EPR có thể giảm nếu hiệu quả tái chế cao

Ngày đăng: 23 | 06 | 2023

Để xác định chi phí đóng góp của các nhà sản xuất, nhập khẩu trong việc thu hồi và tái chế bao bì nhựa, Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam) khuyến nghị cần xây dựng mức chi phí tái chế (Fs) theo hướng: Các sản phẩm đang được tái chế hiệu quả sẽ áp dụng Fs thấp, các sản phẩm chưa được tái chế hiệu quả hoặc chưa được tái chế ở Việt Nam sẽ áp dụng Fs cao.

Việt Nam có năng lực tái chế cao

Luật Bảo vệ Môi trường (BVMT) 2020 đã thể chế hóa đầy đủ và rõ ràng cơ chế Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR – Extended Producer Responsibility) trong việc thu hồi và tái chế các sản phẩm và bao bì có giá trị tái chế (Điều 54). Việc thu hồi và tái chế các sản phẩm, bao bì (bao gồm bao bì nhựa) theo cơ chế EPR được coi là một nội dung cần thiết và cấp bách nhằm quản lý hiệu quả dòng chất thải nhựa tại Việt Nam.

Theo báo cáo của IUCN (2020), trong năm 2018, Việt Nam tái chế được 924.000 tấn nhựa, trong đó, phế liệu nhựa nội địa chỉ chiếm khoảng 1/3. Nghiên cứu của World Bank (2021), chỉ ra trong năm 2019, có 1,28 triệu tấn (33%) nhựa phế liệu được tái chế trên tổng số 3,9 triệu tấn nhựa PET, LDPE, HDPE và PP được tiêu thụ tại Việt Nam (chưa tính tới một tỷ lệ lớn trong số này là phế liệu nhựa nhập khẩu). Điều này đồng nghĩa với tổn thất 75% giá trị vật liệu của tổng lượng nhựa thải, tương đương từ 2,2 - 2,9 tỷ USD mỗi năm.

Trong khi đó, các tổ chức quốc tế đánh giá, tổng năng lực tái chế nhựa của Việt Nam rất lớn. Tính đến tháng 6/2022, có 76 doanh nghiệp được cấp phép nhập khẩu phế liệu nhựa làm nguyên liệu sản xuất (chủ yếu là PE, PET, PS, PVC và PP). Tổng cục Môi trường (TN&MT) đã tổng hợp từ thông tin của Tổng cục Hải quan và báo cáo nhập khẩu phế liệu của các tỉnh, thành phố. Kết quả cho thấy, khối lượng nhập khẩu phế liệu nhựa năm 2019 là 2.313.600 tấn; năm 2020 là 468.300 tấn và năm 2021 là 742.800 tấn (lượng phế liệu nhựa nhập khẩu giảm mạnh trong năm 2020 và có xu hướng tăng trở lại trong năm 2021 do các hạn chế gây ra bởi dịch bệnh COVID-19).

rac
Năng lực tái chế nhựa của khu vực chính quy trong nước lớn nhưng chỉ đón nhận dòng phế liệu nhựa sạch, dễ thu gom

Tổng lượng phế liệu nhựa được cấp phép nhập khẩu của 76 doanh nghiệp được cấp phép đạt trên 3 triệu tấn/năm; cộng thêm với tối đa 20% lượng nhựa phế liệu nội địa sẽ nâng tổng công suất tái chế phế liệu của các cơ sở chính quy nhập khẩu phế liệu lên đến khoảng 3,5 triệu tấn, chưa tính đến các cơ sở sản xuất khác sử dụng phế liệu nhựa nội địa với năng lực khoảng 1 triệu tấn. Điều này cho thấy năng lực tái chế của khu vực chính quy là rất lớn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, khu vực tái chế chính quy chỉ tập trung đón nhận một số dòng nhựa phế liệu nội địa sạch và dễ thu gom, thường là từ nguồn chất thải rắn công nghiệp thông thường hoặc nguồn phế liệu nhựa được thu gom tại hộ gia đình, được cung cấp qua các đại lý hoặc công ty phế liệu.

Riêng tại các làng nghề chuyên sử dụng phế liệu trong nước, thống kê chưa đầy đủ cho thấy, tổng công suất tái chế thuộc khu vực này được ước tính vào khoảng 2 - 2,2 triệu tấn. Nguồn phế liệu nhựa đến từ chất thải rắn sinh hoạt. Đây cũng là nguyên nhân khiến một lượng lớn sản phẩm bao bì nhựa hiện đang không được quản lý và tái chế đúng quy cách; không đáp ứng được yêu cầu với các sản phẩm có chất lượng cao. Ngay cả khi doanh nghiệp tái chế nhựa đã có dây chuyền phân loại, làm sạch phế liệu, có thể đón nhận dòng nhựa phế liệu trong nước thì thường lại không cạnh tranh được với các nhà sản xuất phi chính thức bởi giá thu mua phế liệu quá cao so với giá thành sản xuất.

Xác định chi phí tái chế dựa trên hiệu quả

Nhằm hỗ trợ Bộ TN&MT thực thi hiệu quả cơ chế EPR tại Việt Nam, từ năm 2022 – tháng 4/2023, thông qua Dự án “Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam”, WWF Việt Nam đã chủ trì nghiên cứu xây dựng định mức chi phí Fs đối với sản phẩm bao bì nhựa theo quy định của Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT .

Dựa trên thực tiễn thực tiễn hoạt động quản lý chất thải nhựa của Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, WWF đã đưa ra các khuyến nghị cụ thể nhằm xây dựng định mức chi phí tái chế Fs cho Việt Nam. Theo WWF, trong phụ lục XXII, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP đã có quy định các giải pháp tái chế được xem là hợp lệ. Tuy nhiên, xét như trường hợp sản xuất xơ sợi PE có thể thấy chi phí để tạo thành xơ sợi PE lớn hơn nhiều chi phí tạo thành hạt nhựa. Hoặc, trường hợp tái chế chai PET, chỉ đơn giản sản xuất ra mảnh nhựa được làm sạch có chi phí thấp hơn nhiều so với sản xuất hạt nhựa tái sinh. Trong trường hợp này, định mức chi phí tái chế cần được áp dụng chỉ với một công nghệ cơ bản tạo ra hạt nhựa tái sinh đối với bao bì nhựa.

Về định mức chi phí tái chế cho từng sản phẩm, bao bì phải thu gom và tái chế như được liệt kê trong phụ lục XXII đang có sự khác biệt ngay trong từng nhóm sản phẩm ử dụng cùng công nghệ tái chế, do phụ thuộc vào hoạt động tiền xử lý và làm sạch phế liệu. Trường hợp phế liệu được làm sạch rồi mới chuyển giao thì cơ sở tái chế không cần vận hành các công đoạn đó trong dây chuyền, và do vậy chi phí tái chế sẽ thấp hơn.

Theo WWF, để hỗ trợ cho việc quản lý và giám sát quá trình vận hành của hệ thống EPR, nhất thiết phải ban hành các tiêu chuẩn sản phẩm tái chế, bởi với các yêu cầu sản phẩm khác nhau (thêm phụ gia, các quá trình tinh chế, làm sạch bổ sung) thì chi phí tái chế cũng khác nhau. Bên cạnh đó, cần thiết phải ban hành định mức kinh tế, kỹ thuật cho hoạt động phân loại, thu gom và vận chuyển sản phẩm, bao bì thải vì đây sẽ là một nội dung quan trọng để các cơ quan quản lý địa phương triển khai hiệu quả hệ thống phân loại, thu gom CTRSH.

Ở thời điểm hiện tại, do định mức kinh tế, kỹ thuật này chưa được ban hành nên chi phí được tạm tính từ hoạt động của hệ thống thu gom phế liệu tư nhân đang hoạt động hiệu quả hiện nay.

Việt Nam cũng cần xem xét đến việc điều chỉnh định mức chi phí tái chế theo hướng các sản phẩm đang được tái chế hiệu quả sẽ áp dụng Fs thấp, các sản phẩm chưa được tái chế hiệu quả hoặc chưa được tái chế ở Việt Nam sẽ áp dụng Fs cao.

Một vấn đề cần tính đến là trong các loại vật liệu bao bì, chi phí tái chế nhựa là khá thấp so với giấy, và vì thế nếu Fs cao sẽ gây xu hướng khiến các nhà sản xuất chuyển đổi từ bao bì giấy sang bao bì nhựa để giảm chi phí. Như vậy, việc chuyển đổi này sẽ trái ngược với quan điểm của EPR cũng như định hướng giảm sử dụng bao bì nhựa hiện nay đã được quy định trong Điều 73, Luật BVMT 2020.

Để khắc phục điểm này, Nhóm tư vấn thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội đã đưa ra một hệ số xem xét đến hiệu quả tái chế. Theo đó, loại sản phẩm, bao bì nào đang được tái chế hiệu quả và phổ biến ở Việt Nam hiện nay như bao bì giấy, bao bì nhôm, bao bì PET cứng... sẽ có hệ số nhỏ (và do đó, Fs sẽ thấp). Ngược lại, các sản phẩm, bao bì chưa được thu gom, tái chế hiệu quả bao bì sắt, các bao bì nhựa cứng, bao bì giấy hỗn hợp, bao bì mềm các loại... sẽ có hệ số cao hơn.

Trong các giai đoạn điều chỉnh Fs mỗi 3 năm về sau như quy định trong Khoản 5 Điều 78 Nghị định 08/2022/NĐ-CP, các tiêu chí tính phí nâng cao nên được xem xét áp dụng, bao gồm tỷ lệ tái chế và sự có mặt của một số dạng chất nguy hại hoặc chứa nhiều chất độn đối với sản phẩm bao bì nhựa.

Theo quy định, mặc dù là chi phí hỗ trợ hoạt động phân loại, thu gom sản phẩm, bao bì thải, nhưng hiện tại do chưa ban hành hướng dẫn kỹ thuật cụ thể nên việc xác định chi phí phân loại, thu gom và vận chuyển chỉ mang tính tương đối nhằm hỗ trợ hệ thống thu gom tư nhân đang hoạt động hiệu quả và kết nối trực tiếp hệ thống này với các cơ sở tái chế.

Khi hệ thống cơ sở hạ tầng phân loại, thu gom chất thải sinh hoạt tại địa phương được xây dựng theo Luật BVMT 2020 từ ngày 1/1/2025, thì phần chi phí này sẽ cần được tính toán lại cho phù hợp với định mức dự toán công tác phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn tương ứng với yêu cầu của Luật BVMT 2020.

Một điều cần thiết khác là cần phải có khung pháp chế phù hợp nhằm hạn chế hoạt động của các cơ sở tái chế phi chính thức, nghĩa là hạn chế dòng sản phẩm thải đi vào hệ thống này. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc ban hành các tiêu chuẩn cho vật liệu tái chế hoặc sản phẩm tái chế. Các tiêu chuẩn này, nếu được nghiên cứu ban hành sẽ hỗ trợ cho việc định hướng dòng chất thải đi vào hệ thống tái chế chính thức.

Theo baotainguyenmoitruong.vn

NỘI DUNG KHÁC

Đầu tư cho khí tượng thuỷ văn là để ổn định và phát triển

27-6-2023

"Một trận bão, lũ có thể phá vỡ mọi kế hoạch phát triển, vì vậy, đầu tư cho khí tượng thuỷ văn là đầu tư cho sự ổn định và phát triển; bảo đảm sự chủ động, tính bền vững trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch phát triển…". Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh yêu cầu này khi chủ trì phiên họp của Hội đồng thẩm định Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (sau đây gọi là chung là Quy hoạch), sáng 9/6. Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng nêu rõ: Yêu cầu đặt ra đối với Quy hoạch là phải bảo đảm sự thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương, từ đất liền ra biển đảo, có tính toàn cầu.

Rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định về giá đất

27-6-2023

Chiều 26/6, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân đã chủ trì buổi làm việc với Cục Quy hoạch và Phát triển tài nguyên đất và một số đơn vị liên quan về việc sửa đổi Nghị định 44/2014/TT-BTNMT quy định về giá đất của Chính phủ.Báo cáo tại buổi làm việc, ông Đoàn Ngọc Phương, Phó Cục trưởng Cục Quy hoạch phát triển tài nguyên đất cho biết, Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất gồm 4 chương, 24 điều, trong đó có quy định 5 phương pháp định giá đất, gồm: so sánh trực tiếp, chiết trừ, thu nhập, thặng dư, hệ số điều chỉnh giá đất và điều kiện áp dụng 5 phương pháp này.

Hà Lan là một trong những đối tác hàng đầu về thương mại, đầu tư và thích ứng BĐKH

27-6-2023

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định như vậy khi hội kiến với Chủ tịch Hạ viện Vera Bergkamp và Chủ tịch Thượng viện Jan Anthonie Bruijn, sáng 26/6 (giờ địa phương), tại La Hay (Hà Lan), nhân chuyến công tác và đồng chủ trì Khoá họp thứ 8 Uỷ ban liên Chính phủ Việt Nam – Hà Lan về thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý nước. Tại cuộc gặp, Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện Hà Lan nhiệt liệt chào mừng chuyến thăm làm việc tại Hà Lan của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà và đoàn công tác của Chính phủ Việt Nam; nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của chuyến thăm đúng dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973 – 2023).

Nghiệm thu cấp cơ sở đề tài NCKH cấp Bộ: NC đề xuất quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ tài nguyên địa chất, khoáng sản (TNĐCKS); quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động điều tra cơ bản TNĐCKS và điều tra địa chất chuyên ngành

27-6-2023

Ngày 27/6/2023, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức họp Hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (theo Quyết định số 150/QĐ-VCLCSTNMT ngày 15/6/2023 về việc thành lập Hội đồng đánh giá, nghiệm thu cấp cơ sở đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ): Nghiên cứu đề xuất quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ tài nguyên địa chất, khoáng sản, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên địa chất, khoáng sản và điều tra địa chất chuyên ngành do TS. Mai Thế Toản làm chủ nghiệm. Hội đồng do Phó Viện trưởng - TS. Mai Thanh Dung làm Chủ tịch Hội đồng và những kết quả nghiên cứu đều được các thành viên trong Hội đồng đánh giá cao.

Công đoàn Bộ Tài nguyên và Môi trường chuẩn y Ban chấp hành, Ủy ban kiểm tra Công đoàn Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

28-6-2023

Căn cứ kết quả bầu cử tại Phiên họp thứ nhất của BCH Công đoàn Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Công đoàn Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Quyết định số 87/QĐ-CĐB ngày 16/6/2023 chuẩn y kết quả bầu cử Ban chấp hành, Ủy ban kiểm tra và các chức danh trong Ban chấp hành, Ủy ban kiểm tra Công đoàn Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, khóa V, nhiệm kì 2023 -2028, qua đó công nhận Ban chấp hành có 07 đồng chí.

Nghiệm thu cấp cơ sở đề tài NCKH cấp Bộ: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đề xuất phân công, phân cấp giữa trung ương, địa phương trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước, tài nguyên địa chất, khoáng sản

30-6-2023

Ngày 27/6/2023, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức họp Hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đề xuất phân công, phân cấp giữa trung ương, địa phương trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước, tài nguyên địa chất, khoáng sản do ThS. Nguyễn Thị Như Quỳnh (Vụ Tổ chức cán bộ) làm chủ nghiệm. Hội đồng do Phó Viện trưởng - TS. Mai Thanh Dung làm Chủ tịch Hội đồng và những kết quả nghiên cứu đều được các thành viên trong Hội đồng đánh giá cao.

Trung tâm Phát triển và Ứng dụng khoa học công nghệ về đất đai báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023

30-6-2023

Ngày 29/06/2023, Trung tâm Phát triển và Ứng dụng khoa học công nghệ về đất đai thuộc Viện họp báo cáo Phó Viện trưởng – TS. Nguyễn Minh Trung kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023. Buổi họp có sự tham gia của đại diện Văn phòng, đại diện Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế cùng toàn thể cán bộ, người lao động của Trung tâm để cùng nhau chia sẻ, tháo gỡ những khó khăn trong công việc.

EU đồng hành cùng Việt Nam chuyển đổi xanh

30-6-2023

Đây là khẳng định của bà Florika Fink-Hooijer, Vụ trưởng Vụ môi trường của Liên minh Châu Âu (EU), tại buổi làm việc với Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Võ Tuấn Nhân, vào chiều ngày 29/6. Vui mừng chào đón bà Florika Fink-Hooijer sang thăm và làm việc tại Việt Nam, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân đánh giá cao hỗ trợ của EU cho ngành tài nguyên và môi trường trong thời gian vừa qua, đồng thời mong muốn, EU và Việt Nam tiếp tục hợp tác chặt chẽ để giải quyết những vấn đề chung như phát triển kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.

Hưởng ứng “Ngày không sử dụng túi ni-lông tại Việt Nam”: Bớt túi ni-lông, thêm nhiều mầm sống

3-7-2023

Để hưởng ứng Ngày Quốc tế không sử dụng túi ni-lông, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (CLCSTN&MT) và Sở Công Thương Thành phố Hà Nội phối hợp với Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), Chương trình Đối tác Hành động Quốc gia về Nhựa (NPAP), Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) thông qua Liên minh Doanh nghiệp vì Môi trường Việt Nam (VB4E), Quỹ Vì Tầm Vóc Việt cùng các đối tác giảm rác thải nhựa khác tổ chức Ngày không sử dụng túi ni-lông tại Việt Nam tại các các cơ sở của thành viên Liên minh các nhà bán lẻ giảm túi ni-lông dùng một lần bao gồm: TH true mart, Central Retail, MM Mega Market Việt Nam, AEON Việt Nam, LOTTE Mart Việt Nam. Trong ngày 03/7/2023, các nhà bán lẻ nói trên sẽ vận động khách hàng không sử dụng túi ni-lông tại hệ thống các cửa hàng và thực hiện các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về tác hại của rác thải nhựa.

Ban Kinh tế tài nguyên và môi trường báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023

4-7-2023

Ngày 03/7/2023, Ban Kinh tế tài nguyên và môi trường thuộc Viện họp báo cáo Phó Viện trưởng – TS. Mai Thanh Dung kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023. Buổi họp có sự tham gia của đại diện Văn phòng, đại diện Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế cùng toàn thể cán bộ của Ban để cùng nhau chia sẻ, tháo gỡ những khó khăn trong công việc. Dưới sự chỉ đạo của Lãnh đạo Viện trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao, trong 6 tháng đầu năm 2023, được giao chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy định về tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh, hiện Ban đã hoàn thiện bản giải trình tiếp thu ý kiến của Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ban cũng đang hoàn thiện lại hồ sơ dự thảo Quyết định để trình Lãnh đạo Viện báo cáo Lãnh đạo Bộ về việc hoàn thiện hồ sơ trước khi trình Bộ trình Thủ tướng Chính phủ lần 2.

Ban Địa chất, Khoáng sản và Tài nguyên nước báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023   

4-7-2023

Ngày 03/7/2023, Ban Kinh tế tài nguyên và môi trường thuộc Viện họp báo cáo Phó Viện trưởng – TS. Nguyễn Minh Trung kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023. Buổi họp có sự tham gia của đại diện Văn phòng, đại diện Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế cùng toàn thể cán bộ của Ban để cùng nhau chia sẻ, tháo gỡ những khó khăn trong công việc.

Tạp chí Môi trường báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023    

4-7-2023

Ngày 04/7/2023, Tạp chí Môi trường họp báo cáo Phó Viện trưởng, Tổng Biên tập – TS. Nguyễn Trung Thắng kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và kế hoạch triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023. Buổi họp có sự tham gia của đại diện Văn phòng, đại diện Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế cùng toàn thể cán bộ, phóng viên của Tạp chí để cùng nhau chia sẻ, tháo gỡ những khó khăn trong công việc.Trong 6 tháng đầu năm 2023, do có nhiều thay đổi về cơ cấu tổ chức, Tạp chí phải tập trung giải quyết các thủ tục liên quan đến Giấy phép xuất bản, nhân sự, tài khoản, thủ tục liên quan đến kinh phí… nên tiến độ xuất bản của Tạp chí và các hoạt động thường xuyên khác bị chậm so với kế hoạch đề ra. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn phòng, phát hành, quảng cáo… còn thiếu. Đội ngũ biên tập viên còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc khai thác các vấn đề về tài nguyên và liên quan dẫn tới số lượng và chất lượng nội dung các bài báo nghiên cứu còn hạn chế, nhất là mảng cộng tác viên khu vực miền Trung – Tây nguyên và miền Nam. Việc thu hút quảng cáo, truyền thông cũng gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế chưa được phục hồi.