TUYỂN DỤNG

Khó kiểm soát chỉ dẫn địa lý nông sản: Thiếu chế tài và thể chế quản lý

Ngày đăng: 09 | 09 | 2011

Trải qua 10 năm phát triển chỉ dẫn địa lý (CDDL) nông sản, đến nay cả nước mới chỉ có tất cả 23 sản phẩm được cấp đăng bạ CDDL, nhưng hoạt động quản lý lĩnh vực này cũng chưa có hiệu quả. Nhiều CDDL không được các doanh nghiệp và nông dân sử dụng, trong khi nhiều sản phẩm đã được bảo hộ CDĐL đang bị sử dụng trái phép. Vấn đề phải hoàn thiện pháp luật về quản lý CDDL đang trở nên rất bức thiết.

“Phát triển chỉ dẫn địa lý (CDĐL) Việt Nam” là nội dung cuộc hội thảo do Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), Viện Chính sách, chiến lược phát triển Nông nghiệp-nông thôn (Ipsard) và Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học-Công nghệ) tổ chức ngày 7/9/2011 tại Hà Nội.
 
Ông Tạ Quang Minh, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học công nghệ) cho biết, thống kê ở Việt Nam có đến 993 sản phẩm đặc thù gắn với 721 địa danh trên cả nước. Chính vì vậy, việc phát triển chỉ dẫn địa lý (CDDL) cho từng sản phẩm đang được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, vì khi CDDL của sản phẩm nào đó được thừa nhận và biết đến rộng rãi, sẽ là phương tiện hữu hiệu giúp nâng cao giá bán, cải thiện thu nhập cho người sản xuất, kinh doanh sản phẩm. “CDĐL được bảo hộ khi gắn lên sản phẩm được coi như một chứng chỉ bảo đảm rằng sản phẩm có nguồn gốc tại vùng địa lý nhất định, có chất lượng, có danh tiếng… khác với sản phẩm cùng loại ở các vùng khác. Đồng thời cũng là cơ sở để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có quyền sử dụng CDĐL, ngăn chặn các hành vi sử dụng trái phép CDĐL”- ông Minh khẳng định.
 
Trải qua 10 năm phát triển CDDL, đến nay số lượng CDDL được đăng ký bảo hộ chưa nhiều, mới chỉ có tất cả 23 CDDL được cấp chứng nhận. Trong số đó chỉ một số CDĐL có được hệ thống quản lý và kiểm soát trên thực tế; hoạt động quản lý cũng chưa thực sự có hiệu quả như mong muốn. Một số CDDL sau khi được đăng bạ, nhưng các doanh nghiệp kinh doanh loại nông sản đó lại không có nhu cầu sử dụng CDDL. Chẳng hạn như “Thanh long Bình Thuận” được xuất khẩu rất nhiều, nhưng các doanh nghiệp lại không sử dụng nhãn CDDL Thanh long Bình Thuận trên các lô hàng sản phẩm xuất khẩu để đưa chỉ dẫn này thành yếu tố thương mại.
 
Đến từ tỉnh Yên Bái, ông Hà Đức Anh, Phó Chủ tịch UBND huyện Văn Yên cho biết năm 2010 sản phẩm quế Văn Yên đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ CDĐL. Do giá trị truyền thống của sản phẩm sau khi được bảo hộ CDĐL tạo ra sản phẩm tăng rõ rệt nên mức độ làm giả sản phẩm cũng ngày càng gia tăng. Tình trạng đưa quế chất lượng kém, giá “bèo” từ nơi khác về tiêu thụ đã xuất hiện gây thiệt hại kinh tế cho các cơ sở kinh doanh của địa phương và khó khăn cho cơ chế kiểm soát, mất uy tín của sản phẩm mang CDĐL… “Chúng tôi đề nghị Trung ương sớm ban hành những chế tài xử lý nghiêm khắc đối với hành vi lợi dụng CDĐL để trục lợi, tăng cường giao trách nhiệm cho các cơ quan chuyên ngành để quản lý và phát triển CDĐL đã được công nhận”, ông Anh đề xuất.
 
Ông Hoàng Hữu Nam, Trưởng phòng Quản lý chuyên ngành  (Sở KHCN Nam Định) cho hay, Nam Định có sản phẩm gạo tám xoan Hải Hậu được bảo hộ CDĐL. Hiện Hiệp hội gạo tám xoan Hải Hậu được cấp quyền sử dụng CDĐL nhưng Hội thực chất là một tổ chức kinh tế, không phải là tổ chức nghề nghiệp, kinh nghiệm tổ chức quản lý SX cũng như kinh doanh yếu…
 
Mặc khác, do đặc điểm gạo tám xoan Hải Hậu chỉ SX-KD trong thời gian khoảng 6 tháng nên hoạt động không thường xuyên. Quy trình thâm canh khá phức tạp do tám xoan là giống lúa dài ngày lại trồng trong vùng lúa ngắn ngày. Khi lúa ngắn ngày cần rút nước giai đoạn chín thì lúa tám cần nhiều nước để trổ thoát bông. Vì thế gạo tám xoan bị khô, chất lượng thấp. “Nếu chỉ cấp quyền sử dụng CDĐL cho Hiệp hội tám xoan Hải Hậu thì việc khai thác CDĐL sẽ hạn chế, còn cấp cho hộ nông dân thì không thể kiểm soát được các tiêu chí theo quy định. Còn để HTX NN sử dụng thì thuận lợi nhưng lại khó khăn về vốn SXKD…”- ông Nam băn khoăn.
 
Theo PGĐ  Sở KHCN Bắc Giang Nguyễn Văn Xuất, nhờ  vào danh tiếng được bảo hộ, sản phẩm vải thiều Lục Ngạn của tỉnh đã góp phần tăng giá trị SX từ 450 tỷ (năm 2007) lên 800 tỷ (năm 2011) từ loại quả này. Tuy nhiên nhận thức của các chủ thể có quyền sử dụng CDĐL chưa đầy đủ và sản phẩm chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
 
PGS.TS Nguyễn Văn Bộ, Giám đốc VAAS cho hay, giai đoạn đầu 2001-2005 mới có 2 sản phẩm đầu tiên được bảo hộ CDĐL là nước mắm Phú Quốc và chè Mộc Châu. Từ năm 2005 đến nay có thêm 21 sản phẩm nữa được CDĐL. Tuy nhiên một vấn đề nảy sinh hiện nay là: mỗi loại nông sản sau khi được bảo hộ thì số lượng sản phẩm mang tên đó tăng lên đột biến, nhưng giá bán chỉ tăng lên trong giai đoạn đầu, sau đó giá bán sản phẩm lại giảm mạnh. CDDL của một sản phẩm luôn gắn với một vùng địa lý nhất định, có chung đặc trưng về mặt khí hậu, thời tiết, đất đai, quy trình sản xuất, tính chất bản địa tạo nên giá trị rất đặc trưng của từng sản phẩm.
 
Trước đây ta chủ yếu chú trọng đến các biện pháp kỹ thuật để phát triển sản phẩm mà ít bàn thảo về việc quản lý, chính sách cho nhóm sản phẩm được cấp văn bằng này. Hiện nhiều sản phẩm đã được bảo hộ  CDĐL đang bị sử dụng trái phép. Cụ thể nhãn hiệu nước mắm Phú Quốc tràn lan trên thị trường, thậm chí ở Thái Lan cũng SX nước mắm Phú Quốc. Thương hiệu bưởi Đoan Hùng của Phú Thọ đã được CDĐL nhưng giống quý này được trồng khắp nơi cũng lấy tên “bưởi Đoan Hùng”. Thứ quả đặc sản tiến vua được bày bán ngay đất Phú Thọ gọi là “bưởi Đoan Hùng” chưa chắc đã là bưởi “xịn”…
 
Rõ ràng việc quản lý CDĐL còn nhiều bất cập. Việc chưa có chế tài xử lý sử dụng trái phép thương hiệu khiến người tham gia SX không mặn mà bảo hộ, làm mất đi giá trị sản phẩm. Chúng ta không ngăn cấm đưa các sản phẩm có các đặc tính tốt để nông dân ở nhiều nơi cùng phát triển, nhưng đã là sản phẩm được bảo hộ CDDL thì đó phải là sản phẩm có xuất xứ tại một địa phương, mang tính đặc hữu địa phương, và phải được bảo hộ khi sản phẩm tham gia vào thị trường xuất khẩu thế giới. Việc chúng ta không có chế tài, không có các thể chế quản lý và sự phân cấp rõ ràng, đã đã làm cho những người tham gia vào sản xuất các sản phẩm đăng bạ không mặn mà với sản phẩm đó nữa.
 
Để phát triển CDDL thực sự phát huy tác dụng, thúc đẩy giá trị gia tăng cho sản phẩm, Nhà nước cần phải hoàn thiện pháp luật về quản lý CDDL, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người tiêu dùng và các nhà sản xuất kinh doanh. Nhà nước cũng Cần hỗ trợ các DN gắn tem, nhãn CDDL lên các sản phẩm khi đưa vào hệ thống siêu thị ở các thành phố lớn, tạo tiền đề cho chiếm lĩnh thị trường nội địa.
 
- Chu Khôi - VnEconomy
 
 

NỘI DUNG KHÁC

Tuyển Chuyên gia

12-7-2011

Nhằm tổ chức lại sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở vùng đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) theo quy mô lớn, bắt đầu từ vụ đông xuân 2006-2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai kế hoạch sản xuất 1 triệu tấn lúa chất lượng cao ở bảy tỉnh ĐBSCL. Mục tiêu của mô hình là phát triển sản xuất lúa gạo xuất khẩu ổn định, bền vững, có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo lợi ích cho người sản xuất lúa và doanh nghiệp xuất khẩu gạo, phát huy lợi thế cạnh tranh của lúa gạo ĐBSCL nói riêng và lúa gạo Việt Nam nói chung trên trường quốc tế, từng bước nâng cao thu nhập, đời sống nông dân sản xuất lúa ở ĐBSCL. Nhờ sự tích cực vào cuộc của nhiều tỉnh ĐBSCL và các doanh nghiệp kinh doanh trong những lĩnh vực có liên quan tại đây, phong trào xây dựng “cánh đồng mẫu lớn đã được dấy lên ở nhiều nơi.

Chuyên gia biên soạn tài liệu và giảng dạy kĩ năng tổ chức và quản lý cho nông dân tham gia mô hình

8-8-2011

Công ty AgroVietLink đặt ra mục tiêu kết nối người nông dân, trang trại, nhà chế biến, và người kinh doanh trong một tổ chức gắn kết với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ dưới dạng một mô hình doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp. Để thực hiện việc kinh doanh các sản phẩm nông sản sạch, công ty AgroVietlink đã thành lập công ty TNHH 1 thành viên Greenlink.

Chuyên gia biên soạn tài liệu và giảng dạy về các kiến thức cơ bản và kỹ thuật canh tác rau hữu cơ cho nông dân tại Hòa Bình

8-8-2011

Công ty Cổ phần tư vấn và đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn AgroVietLink (AgroVietLink) đã được thành lập và đi vào hoạt động với sự hỗ trợ từ Dự án “Nghiên cứu xây dựng khuyến nghị chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp” – giai đoạn 2 & 3 do cơ quan Hợp tác phát triển Tây Ban Nha tài trợ thông qua Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD). Trong đó Trung tâm Thông tin được giao quản lý phần vốn góp của Viện cho công ty.

THƯ MỜI CUNG CẤP DỊCH VỤ TỔ CHỨC KHÓA TẬP HUẤN

17-6-2011

Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn - Viện Chính sách và Chiến lược PTNNT có nhu cầu tổ chức khóa tập huấn về phương pháp nghiên cứu thị trường tại Đà Nẵng với nội dung như sau :

CHUYÊN GIA VIẾT BÁO CÁO

8-7-2011

Để đảm bảo sự thành công cho các hoạt động nêu trên của dự án, Ban quản lý dự án giao cho Trung tâm thông tin PTNNNT thực hiện nghiên cứu này. Trong phạm vi trách nhiệm của mình Trung tâm thông tin cần có sự hỗ trợ của 03 Chuyên gia viết báo cáo với điều khoản tham chiếu cho các hoạt động để tham chiếu và quản lý sau này như sau:

CHUYÊN GIA VẼ BẢN ĐỒ FI CẤP TỈNH VÀ HUYỆN

8-7-2011

Tiến hành điều tra thử nghiệm 900 hộ kinh doanh cá thể tại các xã của 3tỉnh thuộc Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long và miền núi phía Bắc

CHUYÊN GIA THU THẬP SỐ LIỆU

8-7-2011

Tiếp tục hoàn thiện phương pháp xây dựng FI và thử nghiệm phương pháp ước lượng khu vực nhỏ để ước lượng FI cho các tỉnh và huyện trong cả nước.

CHUYÊN GIA THỰC HIỆN ĐIỀU TRA

8-7-2011

Từ kết quả nghiên cứu định tính, thiết kế bảng câu hỏi choĐiều tra mẫu hộ kinh doanh để thiết lập mối tương tác giữa mức độ tham gia chính thức và ngành nghề kinh doanh của các hộ;

CHUYÊN GIA PHÂN TÍCH SỐ LIỆU

8-7-2011

Để đảm bảo sự thành công cho các hoạt động nêu trên của dự án, Ban quản lý dự án giao cho Trung tâm thông tin PTNNNT thực hiện nghiên cứu này. Trong phạm vi trách nhiệm của mình Trung tâm thông tin cần có sự hỗ trợ của 02 Chuyên gia phân tích số liệu với điều khoản tham chiếu cho các hoạt động để tham chiếu và quản lý sau này như sau:

CHUYÊN GIA NHẬP TIN VÀ LÀM SẠCH SỐ LIỆU

8-7-2011

Sử dụng nghiên cứu định tính bao gồm phỏng vấn sâu và hội thảo nhóm để thu thập ý kiến của các nhà hoạch định chính sách ở địa phương và các hộ kinh doanh nhằm xác định chính xác các yếu tố của môi trường kinh doanh và các chỉ số thành phần của FI

CHUYÊN GIA GIÁM SÁT THỰC HIỆN ĐIỀU TRA

8-7-2011

Năm hai của dự án tập trung “Xây dựng Chỉ số môi trường kinh doanh cấp tỉnh và huyện cho hộ kinh doanh tại Việt Nam”, trong đó phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp ước lượng sẽ được áp dụng nhằm giải quyết hai vấn đề nói trên. Cụ thể, phương pháp nghiên cứu định tính sẽ góp phần xác định các chỉ số thành phần phản ánh môi trường kinh doanh của hộ kinh doanh một cách chính xác hơn, trong khi đó phương pháp ước lượng khu vực nhỏ sẽ giúp cho việc ước lượng FI cho tất cả các tỉnh, thành, quận và huyện với chi phí thấp khi kết hợp với số liệu sẵn có của Tổng cục Thống kê.

CHUYÊN GIA NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH

8-7-2011

Ở Năm đầu của dự án, IRC và IPSARD đã xây dựng Chỉ số Môi trường kinh doanh của hộ kinh doanh tại Việt Nam (FI) cho hai tỉnh Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Chỉ số này phản ánh môi trường kinh doanh của các hộ và được xây dựng một cách khoa học dựa trên các số liệu điều tra hộ kinh doanh. Căn cứ vào FI, các địa phương có thể giám sát môi trường kinh doanh, từ đó đề ra các biện pháp nhằm tạo điều kiện phát triển cho các hộ tham gia.