HỢP TÁC QUỐC TẾ

Xây dựng chỉ tiêu tối thiểu về số công bố quốc tế

Ngày đăng: 05 | 03 | 2008

Rất nhiều ý kiến trên diễn đàn của Tia Sáng đòi hỏi công trình nghiên cứu, đặc biệt là công trình của các nghiên cứu sinh trong nước phải được đăng trên các tạp chí quốc tế. Đó là điều vô lý với Một quốc gia chưa có trường đại học nào nằm trong Top 500 của thế giới, đầu tư cho nghiên cứu thấp như Việt Nam.

Chính vì vậy, chỉ nên yêu cầu bắt buộc chất lượng quốc tế đối với (i) các công trình nghiên cứu được đầu tư thoả đáng hoặc (ii) để bổ nhiệm các chức danh đặc biệt (trưởng khoa, phòng, bộ môn, phó giáo sư, giáo sư.v.v...) Còn với những nghiên cứu ngoài ngân sách nhà nước, hoặc với đầu tư thấp như đào tạo tiến sĩ trong nước hiện nay chỉ nên khuyến khích xuất bản quốc tế, chứ không thể ép buộc.

Để giải quyết các vấn đề trên tôi đề nghị:

1. Chương trình quốc gia về Nghiên cứu và Phát triển Khoa học cần đề ra các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn dựa trên tiêu chuẩn Chỉ số Quốc gia về ISI (Institute for Scientific Information).

2. Quản lý số công trình chất lượng quốc tế theo cơ quan và đề tài nghiên cứu chứ không theo cá nhân làm nghiên cứu. Ví dụ, hàng năm mỗi khoa/phòng ở các viện/trường/trung tâm nghiên cứu cần đăng ký số lượng xuất bản quốc tế theo kỳ hạn; ngắn hạn (trong vòng 1 năm) và trung hạn( 2-5 năm). Số đăng ký này có thể hiệu chỉnh theo từng năm để phù hợp với tình hình thực tế. Nhà nước dựa trên cơ sở đó để phân bổ ngân sách. Ngay cả trong trường hợp ngân sách không đủ, các cơ sở nghiên cứu lớn vẫn cần tự trang trải để thực hiện những yêu cầu tối thiểu về số công trình chất lượng quốc tế do Bộ chủ quản quy định. Ngược lại, các Bộ chủ quản cần nhanh chóng xây dựng những chỉ tiêu tối thiểu về số xuất bản quốc tế này. Chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu bằng ngân sách cũng cần cam kết chất lượng của sản phẩm nghiên cứu theo tiêu chuẩn quốc tế.

3. Đầu tư xây mới hoặc chỉ định một số khoa/phòng trở thành trung tâm nghiên cứu trọng điểm. Ở các khoa/phòng này, có thể yêu cầu chất lượng quốc tế đối với hầu hết các công trình nghiên cứu.

4. Nghiên cứu sinh trong nước hợp tác nghiên cứu với các trường/viện nước ngoài hoặc đăng ký tốt nghiệp với xuất bản quốc tế, cần được ưu tiên xét hỗ trợ một phần kinh phí.

5. Xây dựng tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo khoa, trường/viện/trung tâm, phó giáo sư, giáo sư…dựa trên số xuất bản quốc tế. Khuyến khích tuyển dụng những người có công trình chất lượng quốc tế vào các viện/trường/trung tâm nghiên cứu.

6. Loại bỏ yêu cầu học vị tiến sĩ ở các vị trí lãnh đạo không cần những hiểu biết sâu về chuyên môn.

7. Thư viện quốc gia và thư viện của các viện khoa học cần đăng ký tài khoản với các tạp chí trực tuyến chuyên ngành quan trọng trên thế giới với sự tham vấn của các chuyên gia từng ngành.

8. Thành lập Phòng Giám Định Chất lượng Các Công Trình Nghiên Cứu và Cục Xúc Tiến Nghiên cứu, Đổi mới & Phát Triển Khoa học Công Nghệ. Đây là một mô hình phòng đăng ký thuộc Cục Sở Hữu Công Nghiệp, Bộ KHCN (hoặc Bộ GD&ĐT) nhằm giúp các nhà nghiên cứu khẳng định “thương hiệu quốc tế” của mình ngay tại Việt Nam, đồng thời giúp nhà nước dễ dàng quản lý. Trên cơ sở đó có thể rút ra một Ngân hàng dữ liệu các nhà nghiên cứu có công trình quốc tế.

Điều này sẽ góp phần tách bạch các nhà nghiên cứu thực với các nhà nghiên cứu trên danh nghĩa. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng các tiến sĩ Việt Nam tốt nghiệp  ở các trường đại học uy tín ở nước ngoài cũng sẽ vui vẻ đăng ký chứng nhận chất lượng các công trình của mình, một khi họ muốn trở về làm việc tại Việt Nam.

* Theo ước tính của Bộ Giáo Dục& Đào tạo, đến năm 2020, Việt Nam cần đào tạo mới hai vạn tiến sĩ, (đa phần được đào tạo trong nước), để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của nền kinh tế. Nếu áp đặt một tiêu chuẩn gay gắt về chất lượng thì sẽ không thể đáp ứng đủ số lượng. Bởi lẽ (i) hai vạn là một con số rất lớn. (Từ 1954 đến nay, cả nước ta mới có khoảng một vạn tiến sĩ) (ii) số người đăng ký học tiến sĩ sẽ giảm đi rất nhiều. (iii) cần số tiền đầu tư cực lớn để có số lượng bài báo quốc tế tương ứng.

* Trên thực tế, ở Mỹ, mỗi ngành khoa học có khoảng 500 trường có đào tạo hệ Tiến sĩ, nhưng chỉ khoảng 200 trong số đó yêu cầu luận văn nghiên cứu đạt chất lượng tầm cỡ quốc tế. Ngay trong số 200 trường đầu tiên này, không phải các tiến sĩ ra trường đều có bài đăng tạp chí quốc tế. Điển hình như ngành kinh tế. Hầu hết công trình của nghiên cứu sinh tốt nghiệp từ 200 trường hàng đầu mới chỉ là tài liệu lưu hành trên Internet và đạt tiêu chuẩn cấp trường. Tuy nhiên, dù chưa được các xuất bản uy tín chấp nhận, các công trình cấp trường này cũng rất hữu ích, đóng góp không nhỏ vào các công trình sâu sắc và quy mô hơn của những người kế tiếp. (Đây chỉ là những kinh nghiệm về ngành kinh tế mà tôi biết. Việc xuất bản ở một số ngành khác có thể dễ dàng hơn).

(Theo Tia Sáng)

NỘI DUNG KHÁC

Nhìn lại hoạt động khoa học ở Việt Nam qua các ấn phẩm khoa học quốc tế

28-1-2008

Thành tích của đội tuyển Việt Nam trong kỳ thi Olympic toán học quốc tế (IMO) lần thứ 48 vừa qua, cũng như các lần tham dự IMO khác là rất đáng tự hào. Tuy nhiên, không nên chỉ dựa vào những thành công đó mà lạc quan cho rằng, nền khoa học của nước ta đang phát triển tốt. Trong thực tế, trình độ khoa học nước ta, kể cả ngành toán học, còn kém xa so với trình độ quốc tế và kém hơn cả một số nước trong khu vực. Trong tương lai, chúng ta cần phải đầu tư cho những ngành khoa học ứng dụng để phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

KHCN cần chủ động gắn với cuộc sống sôi động của đất nước

22-1-2008

Bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiện là Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển- người được các doanh nhân kính trọng, yêu mến không chỉ vì có những đóng góp vào sự đổi mới thể chế, môi trường kinh tế mà còn vì sự thẳng thắn, sâu sắc, khiêm tốn và cởi mở của bà. Tia Sáng đã có cuộc trao đổi với bà về chất lượng tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với KH&CN trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Xây dựng chiến lược quản lý sâu bệnh hại lúa

14-1-2008

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bùi Bá Bổng đã kêu gọi các nhà khoa học quốc tế giúp Việt Nam nghiên cứu xây dựng một chiến lược quản lý côn trùng và bệnh virút hại lúa không lệ thuộc vào thuốc bảo vệ thực vật và có tính bền vững.

Những đột phá khoa học năm 2007

4-1-2008

Những khám phá liên quan đến gen người, các tính chất vật liệu mới và cả những cảnh báo về quá trình ấm lên ngày càng nhanh của Trái đất đã được tạp chí Science bình chọn là những sự kiện khoa học đột phá của năm 2007.

Tình hình thực hiện nghị định 115 tại các địa phương

24-12-2007

Để khoa học và công nghệ (KH&CN) đáp ứng tốt yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, ngày 5.9.2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP (Nghị định 115) quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH &CN công lập. Nội dung chủ đạo của Nghị định là giao quyền tự chủ cao về tổ chức, biên chế, tài chính cho các tổ chức KH &CN (kể cả sản xuất kinh doanh như doanh nghiệp), đổi mới phương thức cấp kinh phí của Nhà nước cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (theo nhiệm vụ, không bao cấp theo số lượng biên chế) và nâng cao hiệu quả hoạt động, gắn kết tốt nghiên cứu với đào tạo và sản xuất.

Hội thảo giới thiệu sách về xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN

13-12-2007

AGROINFO - Ngày 11/12/2007, Trung tâm Thông tin Phát triển (VDIC) trực thuộc Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Hà Nội đã tổ chức hội thảo và giới thiệu cuốn sách "Xây dựng một cộng đồng kinh tế ASEAN: từng viên gạch một". Buổi hội thảo được tổ chức với sự giúp đỡ của Bộ phận hỗ trợ Chính sách Kinh tế Nội vùng thuộc Chương trình Hợp tác Phát triển ASEAN-Australia.

Thông báo của Phòng Khoa học - Viện CS & CL PTNNNT

7-12-2007

Kế hoạch kiểm tra và nghiệm thu đề tài, dự án thuộc vốn ngân sách Nhà nước năm 2007

Niu Di-lân hỗ trợ Việt Nam 1,5 triệu USD để phòng chống cúm gia cầm

6-12-2007

(AGROINFO 6/12/2007) - Đài RFA ngày 3/12 cho biết Niu Di-lân đã cam kết hỗ trợ cho Việt Nam 1,5 triệu USD để phòng chống dịch cúm gia cầm. Theo thỏa thuận vừa được ký kết giữa Cơ quan Viện trợ và Phát triển quốc tế của Niu Di-lân và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, phần lớn số tiền này sẽ được dùng để xây dựng hệ thống theo dõi và giám sát dịch cúm gia cầm ở vùng nông thôn.

Ngân hàng thế giới đánh giá cao dự án Đa dạng hoá nông nghiệp

20-11-2007

Ngân hàng thế giới (WB) và Cơ quan phát triển Pháp (AFD) đã đánh giá cao dự án Đa dạng hoá nông nghiệp, mã số Cr.3099-VN, một trong những dự án nước ngoài lớn nhất do Bộ NN và PTNT quản lý.

Hội nghị các nhà tài trợ cho ngành nông nghiệp - 2007

12-11-2007

Ngày 7/11, tại Hà Nội, Hội nghị Toàn thể các nhà tài trợ cho ngành nông nghiệp và phát triển Nông thôn 2007 đã khai mạc tại Hà Nội với chủ đề “Phát triển nông thôn công bằng và bền vững”.

Việt Nam - Hungari hợp tác về nông nghiệp

2-11-2007

Chương trình hành động giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hungari đã được ký kết chiều 29/10 tại Hà Nội. Ông Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và ông Benedek Fulopp Quốc Vụ khanh phụ trách Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp Hungari đã ký Chương trình hành động trên.

Hội thảo khoa học "Công tác Thuỷ lợi phục vụ phát triển bền vững nuôi trồng Thuỷ sản ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long"

15-10-2007

Mục tiêu hội thảo: - Giới thiệu kết quả nghiên cứu của các đề tài, dự án nghiên cứu và ứng dụng khoa học Thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng Thuỷ sản, các mô hình Thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng Thuỷ sản đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao và bảo vệ môi trường sinh thái. - Đề xuất các giải pháp khoa học công nghệ Thuỷ lợi phục vụ phát triển bền vững nuôi trồng Thuỷ sản cho các vùng nước ngọt, nước mặn, nước lợ.